Bản án 324/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA - TỈNH ĐỒNG NAI

 BẢN ÁN 324/2021/HS-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

 Ngày 08 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:283/2021/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 280/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Như T, sinh năm 1992 tại Bình Thuận; Hộ khẩu thường trú: xã Ea Tiêu, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam, con ông Nguyễn Như Th, sinh năm 1958 và bà Chu Thị K, sinh năm 1958; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt khẩn cấp ngày 13/01/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Bị hại: Anh Phan Thanh H, sinh năm 1995 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi cư trú: Thôn 3A, xã Eao, huyện Eakar, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 11/01/2021, anh Phan Thanh H, sinh năm 1995, trú tại phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai có đăng lên mạng xã hội trang “Chợ tốt” để bán 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone 8 Plus với giá 6.500.000 đồng (sáu triệu năm trăm nghìn đồng) thì có Nguyễn Như T hỏi mua. Khoảng 12 giờ cùng ngày T hẹn gặp anh H tại cổng trường K8, khu phố 3, phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai sau khi xem điện thoại thì T giả vờ trả giá 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) thì anh H đồng ý bán và T nói anh H đưa số tài khoản để cho T chuyển tiền qua tài khoản. Sau đó T làm thao tác chuyển số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) từ ngân hàng Quân đội MB Bank số 97041102812812 mang tên Nguyễn Như T chuyển qua tài khoản ngân hàng Vietcombank số 0481000853533 mang tên Phan Thanh H. Sau khi tạo giao diện chuyển tiền, T không bấm xác nhận chuyển tiền mà đưa cho anh H xem để làm cho anh H tin tưởng nhầm là T đã chuyển tiền để cho anh H đưa điện thoại Iphone 8 Plus cho T. Anh H thắc mắc sao chưa thấy tiền chuyển vào tài khoản thì T nói dối là do khác tài khoản ngân hàng nên khoảng 2 giờ sau thì mới có tiền qua tài khoản và để tạo thêm lòng tin T để lại định vị trên google Maps của T cho anh H nếu chưa nhận được tiền thì tới địa chỉ trên để lấy lại tiền nên anh H tin tưởng và giao điện thoại rồi đi về. Sau khi chiếm đoạt được điện thoại, T đăng lên mạng xã hội “Chợ tốt” bán chiếc điện thoại cho đối tượng không rõ nhân thân lai lịch được 4.200.000 đồng (bốn triệu hai trăm nghìn đồng) và tiêu xài cá nhân hết. Còn anh H mấy ngày sau không thấy nhận được tiền của T chuyển nên đến địa chỉ T gửi để tìm gặp T thì phát hiện địa chỉ T cho là không có thực nên đã trình báo sự việc lên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa để xử lý theo quy định. Quá trình điều tra Nguyễn Như T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

- Vật chứng vụ án: không thu hồi được vật chứng.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số: 29/KL-HĐĐGTS ngày 16/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã kết luận 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus có giá trị 6.445.000 đồng (sáu triệu bốn trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).

- Về dân sự: Anh Phan Thanh H đã nhận số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) mà Nguyễn Như T đã bồi thường thiệt hại nên không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Bản cáo trạng số: 302/CT-VKSBH ngày 05/5/2021 viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố bò cáo Nguyễn Như T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Như T từ 06 (sáu) tháng tù đến 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/01/2021.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Phan Thanh H đã nhận số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) mà bị cáo Nguyễn Như T đã bồi thường thiệt hại nên không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã biết lỗi. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, lời khai của bị hại, các chứng cứ khác có tại hồ sơ và cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố. Từ đó đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ ngày 11/01/2021, tại cổng trường K8, khu phố 3, phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai bị cáo Nguyễn Như T đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt của anh Phan Thanh H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu iphone 8 Plus thì bị cáo T bị phát hiện xử lý theo quy định.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 29/KL-HĐĐGTS ngày 16/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã kết luận 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus có giá trị 6.445.000 đồng (sáu triệu bốn trăm bốn mươi lăm nghìn đồng).

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Xét thấy cần có mức hình phạt nghiêm, để cải tạo, giáo dục bị cáo và cũng để răn đe phòng ngừa chung.

[4] Về Tình tiết tăng nặng: không.

[5] Về Tình tiết giảm nhẹ: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự, người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại quy định tại điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Anh Phan Thanh H đã nhận số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) mà bị cáo Nguyễn Như T đã bồi thường thiệt hại, bị hại anh Phan Thanh H không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Như T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Như T 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/01/2021.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự; người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 324/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:324/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về