TÒA ÁN NHÂN DÂN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 82/2018/HSST NGÀY 18/05/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Hôm nay ngày 18 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 78/2018/HSST ngày 17 tháng 4 năm 2018, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78 ngày 04 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:
Lương Văn T. (tức Lương Ngọc T.), sinh ngày 26 tháng 3 năm 1995 tại Hòa Bình; hộ khẩu thường trú: thị trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nơi ở: tổ dân phố K, thị trấn S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: (không); trình độ văn hóa: (không biết chữ); con ông: Lương Văn S (chết) và bà: Lê Bích T.Danh chỉ bản số 144, lập ngày 01 tháng 02 năm 2018 tại Công an quận HoànKiếm, thành phố Hà Nội.
Tiền sự: (không).
01 tiền án: Ngày 30/9/2014, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh
Tuyên Quang xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. (Trị giá tài sản9.900.000đồng).
Tạm giữ: 31/01/2018; tạm giam: 06/02/2018 - (Có mặt).
* Người bị hại:
Anh Đinh Hữu T.; sinh năm 1995; hộ khẩu thường trú: tổ 14 phường H, thànhphố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên - (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án như sau:
Khoảng đầu tháng 5/2017, Lương Văn T. đến Hà Nội tìm việc làm, do chưa tìmđược việc và không có nơi ở nên T. thường xuyên lang thang trong Bệnh viện Việt Đức phố Phủ Doãn, phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Thấy nhiều bệnh nhân muốn khám nhanh nên T. nảy sinh ý định giả làm bác sỹ trong bệnh viện để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. T. lấy 01 chiếc áo blouse màu trắng tại tầng 3 khoa cấp cứu, nhà C1 của Bệnh viện Việt Đức và nhặt được 01 chiếc thẻ nhân viên y công mang tên Khuất Thị P. Sau đó T. mặc áo blouse, đeo thẻ đi lang thang trong bệnh viện nhằm mục đích lừa đảo. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 28/5/2017, T. gặp anh Đinh Hữu T. đi cùng bà Hoàng Thị L đưa chị Trương Thị T (con bà L) đến điều trị tại Bệnh viện Việt Đức. T. làm quen với anh T. và giới thiệu là bác sỹ hiện đang làm việc tại bệnh viện, có việc gì thì T. sẽ giúp và cho số điện thoại 01656.502.943 của T. để liên hệ. Khoảng 7 giờ 30 phút ngày 30/5/2017, anh T. gọi điện gặp T. nhờ làm thủ tục ra viện sớm cho chị Thỏa. T. yêu cầu anh T. đưa cho T. 1.800.000 đồng để làm thủ tục. Anh T. đưa cho T. 2.000.000 đồng tại nhà B3 Bệnh viện Việt Đức. T. cầm tiền và bảo anh T. tí sẽ quay lại trả 200.000 đồng cùng giấy tờ ra viện cho anh T.. Sau khi nhận tiền T. không làm thủ tục ra viện mà đi xe ô tô về Tuyên Quang, số tiền trên T. đã ăn tiêu hết. Anh T. không thấy T. quay lại, điện thoại cho T. nhưng không liên lạc được. Sau đó gia đình làm thủ tục ra viện cho chị T và báo sự việc cho bảo vệ bệnh viện. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 05/6/2017, Lương Văn T. quay lại Bệnh viện Việt Đức thì bị bảo vệ bệnh viện giữ lại đưa đến Công an phường Hàng Bông.
Tại Công an phường Hàng Bông và Cơ quan điều tra Lương Văn T. khai nhận hành vi lừa đảo như đã nêu trên. Chiếc áo blouse là do T. lấy tại tầng ba khoa cấp cứu Bệnh viện Việt Đức còn chiếc thẻ y công T. nhặt được. Số tiền 2.000.000 đồng chiếm đoạt của anh Đinh Hữu T., T. đã bồi thường cho anh T.. Anh T. đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác. Ngoài ra T. khai vay của anh Đào Xuân D là người nhà bệnh nhân khác số tiền 450.000 đồng. Số tiền này anh Dương cho T. vay nên anh D không yêu cầu cơ quan Công an giải quyết.
Cơ quan điều tra cho Lương Văn T. về nhà để tiếp tục củng cố chứng cứ, tài liệu, quá trình điều tra T. bỏ trốn. Đến ngày 31/01/2018 T. bị bắt theo Quyết định truy nã của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hoàn Kiếm.
Về chiếc áo blouse Cơ quan điều tra đã trưng cầu định giá tài sản. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Hoàn Kiếm kết luận: Hiện chưa đủ căn cứ để định giá. Không xác định được người mất nên Cơ quan điều tra không xử lý.
Đối với chiếc thẻ y công ngày 21/3/2018 Cơ quan điều tra đã trao trả cho chịKhuất Thị P, chị P đã nhận lại thẻ và không có yêu cầu gì khác.Bản cáo trạng số 73/CT-VKS ngày 10 tháng 4 năm 2017, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố bị cáo Lương Văn T. về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Lương Văn T. đều khai nhận vào khoảng 7 giờ 30 phút ngày 30/5/2017, Lương Văn T. đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 2.000.000 đồng của anh Đinh Hữu T. tại Bệnh viện Việt Đức, phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lương Văn T. về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 139 của Bộ luật hình sự năm 1999. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều139 của Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 08 đến 12 tháng tù.
Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét vì trong quá trình điều tra cũng như tạiphiên tòa hôm nay khai báo thành khẩn.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về hành vi: Bị cáo Lương Văn T. không có việc làm nên có ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của những người đến chữa bệnh tại bệnh viện Việt Đức, Hà Nội. Để thực hiện hành vi của mình, T. đã lấy chiếc áo blouse tại khoa Cấp cứu bệnh viện mặc vào người và đeo thẻ của nhân viên bệnh viện nhằm cho những người đi khám chữa bệnh tưởng là người làm trong bệnh viện. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 28/5/2018 T. gặp anh Đinh Hữu T. cùng người nhà đưa chị Trương Thị Thỏa đến điều trị tại bệnh viện. Do T. mặc áo blouse, tự giới thiệu là bác sỹ nên anh T. tưởng thật và nhờ T. làm thủ tục ra viện sớm cho chị Thỏa. Sau khi anh T. đưa 2.000.000 đồng choT., T. đã chiếm đoạt bỏ đi và chi tiêu hết.
Như vậy, hành vi của Lương Văn T. phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tội và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 139 của Bộ luật hình sự năm 1999.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu của công dân về tài sản và trật tự an toàn xã hội.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo khai báo thành khẩn và đã bồi thường thiệt hại. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Hội đồng xét xử căn cứ hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân bị cáo có một tiền án đã được xóa án tích; do vậy, cần thiết cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Ngoài hình phạt chính, do bị cáo không việc làm nên không áp dụng thêm hình phạt bổ sung là phạt tiền.
Biện pháp tư pháp:
- Tịch thu tiêu hủy một áo blouse màu trắng đã cũ, 01 sim điện thoại.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 đã cũ là phương tiện phạm tội
- Người bị hại anh Đinh Hữu T. đã được bồi thường 2.000.000 đồng, không có yêu cầu gì khác nên Tòa không xét.
Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Lương Văn T. phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
2. Hình phạt:
Áp dụng: khoản 1 Điều 139 của Bộ luật Hình sự năm 1999; Điều 38; điểm b, skhoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Lương Văn T. 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày31/01/2018.
3. Biện pháp tư pháp:
Áp dụng: Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy một chiếc áo blouse trắng đã cũ và một sim điện thoại.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 105 đã cũ. (Tang vật hiện giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 16/4/2018).
4. Án phí:
Áp dụng: Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự.
Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo:
Áp dụng: Điều 331; 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về