TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 323/2020/HS-ST NGÀY 25/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 318/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 334/2020/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
ĐVM, sinh năm 1993 tại Nghệ An; thường trú: X5, xã MS, huyện ĐL, tỉnh NA; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông ĐVC, sinh năm 1959 và bà NTT, sinh năm 1962, vợ NTS, sinh năm 1993, có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không:
nhân thân: Bản án số 225/2014/HSST ngày 30/7/2004 bị Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 27 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/8/2015; Bản án số 04/2016/HSST ngày 28/4/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Nam Giang, tỉnh Quảng Nam xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/01/2017, bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/7/2020, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Bà LTMN, sinh năm 1994; thường trú: Ấp MHB, xã MHĐ, huyện CM, tỉnh AG; tạm trú: khu phố BD, phường TG, thành phố TA, tỉnh BD, vắng mặt.
- Người làm chứng:
+ NPNV, vắng mặt.
+ NVH, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
ĐVM là đối tượng không có việc làm. Vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 18/7/2020 ĐVM đi cùng 01 thanh niên tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) trên 01 xe mô tô nhãn hiệu Exciter 150 màu đen không gắn biển số do Hùng điều khiển, khi đi M mang theo 01 ba lô màu xám đen, bên trong chứa 01 cây kìm cộng lực màu vang đen có ghi dòng chữ TCVW-HCR20; 01 đoạn kim loại hình tròn hình chữ L một đầu tròn, một đầu ống tròn hình lục giác, khi đi đến trước ki ốt của nhà trọ PT tại địa chỉ Ô62 DC31, đường D11, khu dân cư Việt- Sing, khu phố 4, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì phát hiện trên hàng lang đi bộ trước ki ốt trên có 01 xe mô tô nhãn hiệu Future FI màu xanh có cắm chìa khóa không người trông coi nên Hùng dừng xe lại bên đường, M xuống xe đi bộ qua bên đường. M quan sát không có ai nên đã đẩy xe xuống lòng đường, dùng tay phải mở chìa khóa lên định đề máy bỏ chạy thì bị bà LTMN là chủ xe máy phát hiện chạy ra nắm lấy tay cầm xe kéo lại và tri hô. Lúc này M bỏ xe chạy bộ được 01 đoạn thì bị người dân bắt giữ, riêng đối tượng H chạy thoát.
Tang vật thu giữ: 01 ba lô màu xám đen, bên trong chứa 01 cây kìm cộng lực màu vang đen có ghi dòng chữ TCVW-HCR20; 01 đoạn kim loại hình tròn hình chữ L một đầu tròn, một đầu ống tròn hình lục giác và 01 xe mô tô nhãn hiệu Future FI biển số 67L1-960.37.
Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 23/7/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Thuận An kết luận 01 xe mô tô nhãn hiệu Future FI biển số 67L1-960.37 có giá trị 19.000.000 đồng.
Tại Cáo trạng số 331/CT-VKS-TA ngày 27/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố bị cáo ĐVM về tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An trình bày lời luận tội trong đó có nội dung giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo ĐVM mức hình phạt từ 01 (một) năm tù đến 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù.
- Về vật chứng:
Đối với xe xe mô tô nhãn hiệu Future FI biển số 67L1-960.37 là tài sản của bà LTMN nên cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho bà N là có căn cứ, bà Nhân không yêu cầu bồi thường.
Đối với 01 ba lô màu xám đen, 01 cây kìm cộng lực dài 45cm, màu vàng đen có ghi dòng chữ TCVW-HCR20; 01 đoạn kim loại hình tròn hình chữ L một đầu tròn, một đầu ống tròn hình lục giác là vật chứng của vụ án đề nghị hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.
Đối với đối tượng tên H hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.
Tại phiên tòa, bị cáo ĐVM đã khai nhận toàn bộ hành vi như Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
- Ý kiến của bị hại bà LTMN trong quá trình điều tra: Đã nhận lại xe mô tô biển số 67L1-960.37, không có yêu cầu bồi thường gì khác và đề nghị Hội đồng xét xử xét xử bị cáo theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo ĐVM khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị hại, người làm chứng, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 18/7/2020 tại địa chỉ Ô62 DC31, đường D11, khu dân cư Việt- Sing, khu phố 4, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương bị cáo Đặng Văn Mỹ có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là xe mô tô biển số 67L1-960.37 trị giá 19.000.000 đồng của bà LTMN thì bị tri hô bắt giữ. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị xử lý nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, muốn có tài sản sử dụng không phải bằng sức lao động của mình nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp hậu quả và pháp luật. Do đó cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4]. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
- Về tình tiếp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; có ông ngoại là liệt sỹ, là đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đề nghị xử phạt bị cáo ĐVM mức hình phạt như trên là phù hợp nên chấp nhận.
[5]. Về xử lý vật chứng Đối với xe xe mô tô nhãn hiệu Future FI biển số 67L1-960.37, cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại xe cho bà Nhân là có căn cứ.
Đối với 01 ba lô màu xám đen, 01 cây kìm cộng lực dài 45cm, màu vàng đen có ghi dòng chữ TCVW-HCR20; 01 đoạn kim loại hình tròn hình chữ L một đầu tròn, một đầu ống tròn hình lục giác là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với đối tượng tên H hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.
[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 173; Điều 47, điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo ĐVM phạm tội trộm cắp tài sản.
Xử phạt bị cáo ĐVM 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/7/2020.
2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 ba lô màu xám đen, 01 cây kìm cộng lực dài 45cm, màu vàng đen có ghi dòng chữ TCVW-HCR20; 01 đoạn kim loại hình tròn hình chữ L một đầu tròn, một đầu ống tròn hình lục giác (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/10/2020) 3. Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo ĐVM phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 323/2020/HS-ST ngày 25/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 323/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về