Bản án 32/2021/HS-ST ngày 08/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 32/2021/HS-ST NGÀY 08/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn T; tên gọi khác: Không.

Sinh ngày 08/10/1979, tại: Xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn B (đã chết) và con bà Lò Thị M, sinh năm 1959; bị cáo có vợ là Lò Thị B, sinh năm 1981 (ly hôn năm 2013) và có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bị cáo bị xét xử 02 lần về tội Trộm cắp tài sản và bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/12/2020, tạm giam từ ngày 18/12/2020 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Thương, Luật sư - Thực hiện trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, (Có mặt).

* Người làm chứng: Ông Quàng Văn Q, sinh năm 1951; nơi cư trú: Bản S, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên, (Vắng mặt).

* Người có nghĩa vụ liên quan: Lường Văn T, sinh năm 1971; nơi cư trú: Bản C, xã A, huyện M, tỉnh Điện Biên, (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 15/12/2020, bị cáo Lò Văn T một mình đi xe khách từ thị trấn T, huyện T đến bản C, xã A, huyện M để tìm mua ma túy. Bị cáo đi vào nhà Lường Văn T, sinh năm 1971, trú tại bản C, xã A, huyện M và chủ động hỏi Lường Văn T có Heroine không bán cho bị cáo sáu triệu bốn trăm nghìn đồng. Lường Văn T đồng ý, nhận số tiền bị cáo đưa cho là 6.400.000đ (sáu triệu bốn trăm nghìn đồng) và lấy trong hộp giấy ở dưới gầm bàn uống nước đưa cho bị cáo 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa Heroine. Bị cáo nhận gói Heroine và hỏi “có viên hồng không bán cho bốn trăm nghìn đồng?”, sau đó bị cáo lấy 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) đưa cho Lường Văn T, nhận tiền xong Lường Văn T đưa cho bị cáo 12 viên hồng được gói bằng túi nilon màu xanh và đưa thêm cho bị cáo 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa Heroine và nói “cho chú mang về dùng thử”. Bị cáo cầm viên hồng và gói Heroine bọc bằng giấy cho vào vỏ bao thuốc lá hiệu Thăng Long cất vào túi quần; gói Heroine còn lại bị cáo cất trong túi áo bên phải sau đó bắt xe khách đi về nhà nhằm mục đích để sử dụng và bán lẻ kiếm lời, nhưng chưa kịp bán cho ai. Đến 19 giờ 30 phút cùng ngày khi bị cáo đi đến khu vực bản Sái Trong, xã Q, huyện T vào quán ông Quàng Văn Qđể mua thẻ điện thoại thì bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phát hiện bắt quả tang thu giữ 02 gói Heroine có khối lượng 15,29 gam và 12 viên ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 1,14 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo Lò Văn T là 16,43 gam, tạm giữ của bị cáo 01 chứng minh nhân dân mang tên Lò Văn T. Cơ quan điều tra trích 0,68 gam chất bột màu trắng và trích 0,1 gam viên ném màu hồng làm mẫu vật giám định; vật chứng còn lại 14,61 gam Heroine và 1,04 Methamphetamine.

Tại bản Kết luận giám định số: 73/GĐ-PC09 ngày 02/01/2021 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên kết luận: “02 mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là chất ma tuý: Loại Heroine; mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là chất ma tuý:

Loại Methamphetamine; khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Văn T là 15,29 gam chất bột màu trắng và 1,14 gam viên ném màu hồng”.

Tại bản Cáo trạng số: 20/CT-VKS-TG ngày 15 tháng 3 năm 2021, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội: Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điểm p Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan Điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.

Thực hành quyền công tố tại phiên tòa: Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm p Khoản 2 Điều 251 , Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 12 năm đến 13 năm tù. Không phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; đề nghị tuyên tịch thu 01 gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín bên trong chứa 14,61 gam Heroine và 1,04 gam Methamphetamine vật chứng còn lại của vụ án để tiêu hủy; đề nghị trả lại cho bị cáo 01 chứng minh nhân dân số 040549579 mang tên Lò Văn T. Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo: Người bào chữa nhất trí với bản Cáo trạng, Luận tội của Kiểm sát viên xét xử bị cáo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; nhất trí với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã ly hôn, một mình nuôi 03 người con và phụng dưỡng mẹ già hết sức lao động; bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất có thể theo quy định của pháp luật, không phạt bổ sung bằng tiền và miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo: Khoảng hơn 17 giờ ngày 15/12/2020, bị cáo Lò Văn T mua 01 gói Heroine với số tiền là 6.400.000đ (sáu triệu bốn trăm nghìn đồng) và 12 viên ma túy Methamphetamine với số tiền 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) của Lường Văn T, địa chỉ: Bản Cha Nọ, xã Ẳng Tở, huyện Mường Ảng. Mục đích mua ma túy để sử dụng, bán kiếm lời, nhưng bị cáo chưa kịp bán cho ai và chưa kịp sử dụng; đến 19 giờ 30 phút cùng ngày trên đường về nhà, bị cáo vào quán nhà ông Quàng Văn Q mua thẻ điện thoại thì bị Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang thu giữ 02 gói Heroine và 12 viên Methamphetamine. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo Lò Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 Bộ luật Hình sự. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng khối lượng các chất ma túy bị thu giữ là 16,43 gam. Vì vậy, Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Lò Văn T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm p Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[2] Về tính chất và mức độ của vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo trực tiếp, tiếp tay cho những người chuyên mua bán trái phép các chất ma túy tồn tại và phát triển; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm .... làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Tuần Giáo nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo từ nhỏ sống phụ thuộc vào gia đình tại xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; được đi học hết lớp 5; năm 1999 kết hôn đến năm 2013 ly hôn; năm 2013 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh xã hội Ba Vì đã cai nghiện được chất ma túy, nhưng năm 2018 lại tái nghiện; năm 2005 Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo xét xử bị cáo tại Bản án số: 41/2005/HSST ngày 07/6/2005 bị tuyên phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; năm 2009 Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo xét xử bị cáo tại Bản án số: 44/2009/HSST ngày 28/4/2009 bị tuyên phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo từng được giáo dục, cải tạo tại trại giam lẽ ra phải lấy đó làm bài học sống tốt hơn để nuôi dậy các con. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật đồng thời giúp bị cáo cai nghiện chất ma túy.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Xét thấy nghề nghiệp của bị cáo là sản xuất nông nghiệp, sống ở xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên không có khả năng thi hành. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Kiểm sát viên đề nghị xử phạt đối với bị cáo: Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên về mức hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần chấp nhận.

[6] Người bào chữa đề nghị đối với bị cáo: Xét thấy mức án người bào chữa cho bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Các vấn đề khác: Đối với Lường Văn T, sinh năm 1971, trú tại bản C, xã A, huyện M là người bị cáo Lò Văn T khai đã bán ma túy cho bị cáo vào ngày 15/12/2020. Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Lường Văn T thu giữ 1,66 gam Heroine và 2,76 gam Methamphetamine; quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo đã tiến hành lấy lời khai, đối chất giữa bị cáo và Lường Văn T, nhưng Lường Văn T không thừa nhận việc bán ma túy cho bị cáo. Ngoài lời khai của bị cáo ra không có tài liệu, chứng cứ khác để chứng minh Lường Văn T bán ma túy cho bị cáo; hiện tại Lường Văn T đang bị khởi tố điều tra ở một vụ án khác, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Vật chứng vụ án: Đối với 01 gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín bên trong chứa chứa 14,61 gam Heroine và 1,04 gam Methamphetamine vật chứng còn lại của vụ án cần tịch thu, tiêu hủy; đối với 01 chứng minh nhân dân số 040549579 mang tên Lò Văn T cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Về hành vi và các quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan đã thực hiện đều hợp pháp và được chấp nhận.

[10] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn xin miễn án phí; theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm p Khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố:

1. Về tội danh: Bị cáo Lò Văn T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Áp dụng Điểm p Khoản 2 Điều 251, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn T 12 ( mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/12/2020.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a Khoản 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng, các mép đều được dán kín bên trong chứa chứa 14,61 gam Heroine và 1,04 gam Methamphetamine vật chứng còn lại của vụ án; trả lại cho bị cáo 01 chứng minh nhân dân số 012345679 mang tên Lò Văn T, do Công an tỉnh Điện Biên cấp ngày 21/02/2009 theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 26/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

4. Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo được miễn nộp toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 08/4/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2021/HS-ST ngày 08/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về