Bản án 32/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Ý YÊN, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 32/2020/HS-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ý Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Thế M sinh năm 1987 tại thôn Đ, xã N, thành phố N, tỉnh N; nơi cư trú: thôn Đ, xã N, thành phố N, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn C và bà Điền Thị L; chưa có vợ, con; tiền án: Ngày 08/9/2017 bị TAND huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình xử phạt 18 tháng tù về tội "Cưỡng đoạt tài sản", ngày 12/10/2018 chấp hành xong; tiền sự: Ngày 01/6/2015, Công an phường Vân Giang, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền 750.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 20/01/2016, Công an phường Bích Đào, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền 750.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 20/01/2019, bị Công an thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền 7.500.000 đồng về hành vi “Tàng trữ hàng cấm”; nhân thân: Ngày 21/7/2015, Công an tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền 1.000.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 20/5/2014, TAND thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Ngày 31/01/2009, Công an phường Nam Bình, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền 100.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 19/01/2011, Công an tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền 500.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 09/7/2013, Công an tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền 500.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 07/12/2015, Công an phường Ninh Sơn, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức cảnh cáo về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 28/12/2015, Công an tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức cảnh cáo về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 20/02/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình xử phạt 30 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản".

Hiện nay bị cáo đang thi hành Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HS-ST ngày 20/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" từ ngày 18/9/2019; “có mặt”.

2. Nguyễn Văn T sinh năm 1984 tại thôn V, xã N, thành phố N, tỉnh N; nơi cư trú: thôn V, xã N, thành phố N, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Hoàng Thị Th sinh năm 1991 và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 05/6/2017, Công an phường Thanh Bình, thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; ngày 20/02/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình xử phạt 18 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản".

Hiện bị cáo đang thi hành Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HS-ST ngày 20/02/2020 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình xử phạt bị cáo 18 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" từ ngày 18/9/2019; “có mặt”.

- Bị hại: Chị Phạm Thị H; sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn M, xã Y, huyện Y, tỉnh N; “vắng mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Mai Văn Th; sinh năm 1965; địa chỉ: Thôn M, xã Y, huyện Y, tỉnh N; “có mặt”.

2. Anh Dương Văn L; sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn Đ, xã N, thành phố N, tỉnh N; “vắng mặt”.

- Người làm chứng: Bà Đào Thị A; sinh năm 1962; Địa chỉ: Thôn M, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định; “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Thế M, Nguyễn Văn T có lý lịch nêu trên thường xuyên rủ nhau đi trộm cắp tài sản để tiêu sài cá nhân. Chiều ngày 10/7/2019, M và T rủ nhau sang địa bàn huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định mục đích để trộm cắp tài sản. Hoàng Thế M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Atila chở Nguyễn Văn T đi theo đường cao tốc qua cầu Nam Bình sang địa phận huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Khi đến địa phận thôn Mễ Thượng, xã Yên Khang, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, M điều khiển xe rẽ trái, đi vào đường trong xóm, thấy bên tay phải có 01 ngôi chùa sát mặt đường, quan sát thấy có 01 chiếc xe máy BKS 18D1-30671 nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc của chị Phạm Thị Hạnh, sinh năm 1981 trú tại thôn Mễ Thượng, xã Yên Khang, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định để trong sân chùa, không có người quản lý, M và T quay xe lại, dừng ở cổng chùa. Hoàng Thế M bảo Nguyễn Văn T đứng ngoài cảnh giới, còn mình thì đi bộ vào trong sân chùa dùng 01 vam phá khóa, mở ổ khóa điện, lên xe điều khiển bỏ chạy theo đường cao tốc kéo dài về hướng Ninh Bình về nhà M. Nguyễn Văn T điều khiển xe Atila chạy theo. Sau khi trộm cắp chiếc xe máy trên, M bảo T tháo biển kiểm soát xe vừa trộm cắp ra, thay bằng 01 biển kiểm soát khác để tránh bị phát hiện, sau đó T mang xe về sử dụng. Do không có tiền tiêu sài cá nhân, Nguyễn Văn T đã vay của anh Dương Văn L, sinh năm 1988 trú tại Thôn Đ, xã N, thành phố N, tỉnh N số tiền 2.500.000 đồng và đặt lại chiếc xe máy trên để làm tin. Sau đó, T đưa cho M 1.250.000 đồng và nói đó là số tiền bán xe, số tiền còn lại, T đã sử dụng vào mục đích tiêu sài cá nhân.

Sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên, Hoàng Thế M và Nguyễn Văn T còn thực hiện nhiều hành vi trộm cắp tài sản khác và bị Công an huyện huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình phát hiện, khởi tố vụ án, khởi tố bị can để điều tra làm rõ. Quá trình điều tra, Hoàng Thế M, Nguyễn Văn T đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản tại địa bàn thôn Mễ Thượng, xã Yên Khang, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Anh Dương Văn L đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình chiếc xe mô tô BKS18D1- 30671 nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc do Hoàng Thế M và Nguyễn Văn T chiếm đoạt. Cơ quan CSĐT Công an huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đã bàn giao lại chiếc xe này cho cơ quan CSĐT Công an huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 31- 10- 2019, cơ quan CSĐT Công an huyện Ý Yên đã ra Yêu cầu định giá tài sản đối với chiếc xe mô tô BKS18D1-30671 nhãn hiệu Honda Wave màu đen bạc. Tại bản kết luận định giá tài sản số 37 ngày 23- 12- 2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện Ý Yên kết luận: Xe máy nhãn hiệu Honda, loại xe Wave BKS18D1-30671 có giá trị là 8.100.000 đồng. Chiếc xe mô tô BKS18D1-30671 nhãn hiệu Honda, kiểu dáng Wave màu đen bạc, quá trình điều tra xác định là xe của anh Mai Văn Th, sinh năm 1965 trú tại thôn M, xã Y, huyện Y, tỉnh N. Ngày 10/7/2019, anh Thuận cho chị Phạm Thị H mượn xe để đi lại. Cơ quan CSĐT Công an huyện Ý Yên đã trả lại cho anh Mai Văn Th là chủ sở hữu.

Anh Dương Văn L là người giữ chiếc xe mô tô BKS18D1-30671 và cho Nguyễn Văn T vay số tiền 2.500.000 đồng, nhưng anh L không biết chiếc xe mô tô trên là do T trộm cắp mà có, do đó hành vi không cấu thành tội phạm. Đồng thời anh L không có đề nghị gì về số tiền này.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Phạm Thị H và anh Mai Văn Th không yêu cầu gì về vấn đề dân sự.

Tại cơ quan điều tra, Hoàng Thế M, Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và tỏ ra ăn năn hối cải.

Tại Bản cáo trạng số 25/CT-VKS-YY ngày 17 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định đã truy tố Hoàng Thế M và Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà sơ thẩm:

Bị cáo Nguyễn Văn T bổ sung lời khai về nhân thân: Bị cáo có vợ là Lê Thị N, có 01 con sinh năm 2007. Tuy nhiên giữa bị cáo và chị Lê Thị N đã ly hôn. Hiện nay, bị cáo đã kết hôn với chị Hoàng Thị Th sinh năm 1991 và có 01 con chung sinh năm 2017, bị cáo và chị Hoàng Thị Th đang trong tình trạng sống ly thân (Lời khai này của bị cáo cũng phù hợp với biên bản hỏi cung ngày 14/01/2020).

Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Hoàng Thế M và Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Hoàng Thế M từ 30 tháng đến 36 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 30 tháng tù tại Bản án số 08/2020/HS-ST ngày 20- 02-2020 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình về tội “Trộm cắp tài sản”. Buộc bị cáo Hoàng Thế M phải chấp hành hình phạt chung cả hai bản án từ 60 đến 66 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 18/9/2019.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 56 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 18 tháng tù tại Bản án số 08/2020/HS-ST ngày 20-02-2020 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình về tội “Trộm cắp tài sản”. Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chấp hành hình phạt chung cả hai bản án từ 36 đến 42 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18/9/2019.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Chiếc xe máy BKS18D1-30671 mà Hoàng Thế M và Nguyễn Văn T chiếm đoạt, chủ sở hữu là anh Mai Văn Th đã nhận lại được tài sản; bị hại chị Phạm Thị H, anh Mai Văn Th không yêu cầu gì về vấn đề dân sự nên không cần thiết phải xử lý.

Anh Dương Văn Linh là người giữ chiếc xe máy BKS18D1-30671 và cho Nguyễn Văn T vay số tiền 2.500.000 đồng nhưng anh L không biết chiếc xe máy là do T trộm cắp mà có nên hành vi của anh L không cấu thành tội phạm. Số tiền 2.500.000 đồng Nguyễn Văn T vay của anh L, anh L không có đề nghị gì đối với số tiền này nên đề nghị không xem xét xử lý vấn đề này.

Ý kiến tranh luận của các bị cáo: Các bị cáo đều có ý kiến là mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị là quá cao vì số tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt của bị hại chỉ có giá trị là 8.100.000 đồng trong khi khung khoản 1 Điều 173 mức án từ 06 tháng đến 36 tháng. Tại bản án trước đó Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đã xử bị cáo M, T lần lượt là 30 tháng và 18 tháng với tình tiết là phạm tội nhiều lần, tài sản chiếm đoạt là gần 35 triệu đồng. Vì vậy, các bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Ý kiến của Kiểm sát viên: Bị cáo M có 01 tiền án và đang chấp hành 30 tháng tù về hành vi trộm cắp tài sản, bản thân bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xử lý hình sự và hành chính; bị cáo T đang phải chấp hành 18 tháng tù về hành vi trộm cắp tài sản, bản thân bị cáo có nhân thân xấu. Vì vậy mức đề nghị về hình phạt đối với bị cáo M và T của Viện kiểm sát là có căn cứ, đại diện viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm.

Ý kiến tranh luận của ông Mai Văn Th: Tài sản bị các bị cáo chiếm đoạt ông đã nhận lại, ông không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì khác.

Không ai có ý kiến tranh luận gì khác.

Lời nói sau cùng: Các bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, các bị cáo ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo sớm được về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ý Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Hội đồng xét xử xét thấy Hoàng Thế M và Nguyễn Văn T sau khi bị bắt vì hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản tại địa bàn thôn Mễ Thượng, xã Yên Khang, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Theo quan điểm phổ biến hiện nay các vụ án hình sự nhất thiết phải bảo đảm rằng bị cáo không thể bị kết tội trừ khi có đầy đủ chứng cứ để chỉ ra rằng tội trạng của người đó nằm bên ngoài bất cứ một sự hoài nghi hợp lý nào. Quan điểm về nội dung này là tương đồng với quan điểm của hệ thống tư pháp của nước ta. Hiện nay, nguyên tắc suy đoán vô tội đã được pháp điển hóa cụ thể tại Điều 13 của Bộ luật tố tụng hình sự, điều này đã được khẳng định một cách rõ rằng và chắc chắn rằng không thể chỉ dựa vào lời khai của bị cáo để làm căn cứ buộc tội bị cáo. Đồng thời chúng ta cũng đã thừa nhận và đã quy định rõ là bị cáo có quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Do đó trên cơ sở đánh giá toàn diện các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập đảm bảo tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Cụ thể là lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, các nội dung thể hiện về thời gian địa điểm diễn ra sự kiện pháp lý, cũng như đối tượng tài sản bị xâm phạm đã được thu hồi và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thấy đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 10/7/2019, tại sân chùa thôn Mễ Thượng, xã Yên Khang, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, Hoàng Thế M và Nguyễn Văn T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe mô tô BKS18D1-30671 trị giá 8.100.000 đồng thuộc sở hữu của anh Mai Văn Th do chị Phạm Thị H đang quản lý.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là phạm tội nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, các bị cáo cố tình thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác để có tiền tiêu sài. Điều đó đã gây mất trật tự trị an xã hội và sự bất bình trong nhân dân. Hành vi đó đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ý Yên đã truy tố.

[3] Về vai trò của các bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, Nguyễn Văn T tích cực tham gia vào việc trộm cắp và tiêu thụ tài sản nên giữ vai trò đồng phạm giúp sức, Hoàng Thế M là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên có vai trò cao hơn bị cáo T.

[4] Xét nhân thân các bị cáo: Các bị cáo đều có nhân thân xấu, điều này được thể hiện rất rõ trong lý lịch của các bị cáo. Vì vậy, HĐXX sẽ xem xét đánh giá toàn diện để quyết định mức hình phạt tương xứng đối với từng bị cáo.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; bị cáo T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo M phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[6] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo; căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo M có 01 tiền án và có nhân thân xấu; bị cáo T có nhân thân xấu. Các bị cáo đều đã từng phải chấp hình phạt tù nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Hiện nay, cả hai bị cáo đang phải chấp hành bản án số 08/2020/HS-ST ngày 20-02-2020 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt các bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và làm gương cho những người khác.

[7] Về tổng hợp hình phạt: Hành vi trộm cắp chiếc xe máy BKS18D1- 30671 xảy ra trước khi Bản án số 08/2020/HS-ST ngày 20-02-2020 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình có hiệu lực pháp luật nên không áp dụng tình tiết tăng nặng là tái phạm đối với các bị cáo. Cần áp dụng khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” của Hoàng Thế M, 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” của Nguyễn Văn T của Bản án số 08/2020/HS-ST ngày 20-02-2020 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình với hình phạt của các bị cáo tại bản án này. Buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

 [8] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều làm nghề tự do, thu nhập không ổn định và hiện đang phải chấp hành hình phạt tù nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Chiếc xe máy BKS18D1-30671 mà Hoàng Thế M và Nguyễn Văn T chiếm đoạt, chủ sở hữu là anh Mai Văn Th đã nhận lại được tài sản, anh Mai Văn Th không yêu cầu gì về vấn đề dân sự. Đồng thời người bị hại chị Phạm Thị H cũng không có yêu cầu gì. Vì vậy HĐXX không đề cập xử lý.

Số tiền 2.500.000 đồng Nguyễn Văn T vay của anh Dương Văn L, anh Dương Văn L không có đề nghị gì đối với số tiền này nên HĐXX không để cập xử lý.

[10] Đối với hành vi của anh Dương Văn L: Quá trình điều tra đã xác định, anh L là người cho Nguyễn Văn T vay số tiền 2.500.000 đồng, T đã dùng chiếc xe máy BKS18D1-30671 cho anh L giữ để làm tin. Anh L không biết chiếc xe máy là do T trộm cắp mà có, hành vi của anh L không cấu thành tội phạm. Vì vậy HĐXX không phải xem xét giải quyết.

[11] Về xử lý vật chứng: Đã được cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Ý Yên xử lý xong. Các vật chứng khác có liên quan đã được giải quyết tại bản án số 08/2020/HS-ST ngày 20-02-2020 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình nên HĐXX không quyết định gì thêm.

[12] Về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự: Các bị cáo phải nộp án phí theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[13] Các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại các tại Điều 331, 332, 333 Bộ luật hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố các bị cáo Hoàng Thế M, Nguyễn Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 56; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Thế M 24 (hai bốn) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” của Bản án số 08/2020/HS-ST ngày 20-02-2020 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Bị cáo Hoàng Thế M phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 54 (năm tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 18/9/2019. Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 17; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 18 (mười tám) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 18 tháng tù của Bản án số 08/2020/HS-ST ngày 20-02-2020 của Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. Bị cáo Nguyễn Văn T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 36 (ba sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18/9/2019.

2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Hoàng Thế M, Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng.

3. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HS-ST ngày 27/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:32/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện ý Yên - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về