Bản án 32/2020/HS-ST ngày 27/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM P, TỈNH QUẢNG N

BẢN ÁN 32/2020/HS-ST NGÀY 27/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 4 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2020/QĐXXST-HS ngày 09/4/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn C, tên gọi khác: Trọng; sinh ngày 07/10/1984 tại thị xã Quảng Y, tỉnh Quảng N; nơi ĐKHKTT: Xóm Nam, xã Liên Vị, thị xã Quảng Y, tỉnh Quảng N; chỗ ở: Tổ 2, khu 6, phường Mông D, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Chất và con bà Lê Thị X; vợ Trần Thị A và 03 con; tiền án: Ngày 24/01/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm P xử phạt 03 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong bản án ngày 27/01/2018; tiền sự: Không; bị bắt quả tang ngày 20/12/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng N, có mặt.

- Người làm chứng: Anh Vũ Khải H, sinh năm 1970; nơi ĐKNKTT: Tổ 49, khu 4B2, phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, vắng mặt không có lý do.

- Người chứng kiến:

1. Chị Phạm Thị Hương L, sinh năm 1977; trú tại: Tổ 25B, khu 4A, phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, vắng mặt không có lý do.

2. Anh Đỗ Quý C, sinh năm 1976; trú tại: Tổ 3, khu 1, phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 05 phút ngày 20/12/2019, tại khu vực trước cửa nhà nghỉ Thanh B, thuộc tổ 89, khu 9A, phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N. Công an thành phố Cẩm P bắt quả tang Nguyễn Văn C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ của C, gồm: 01 (một) vỏ bao thuốc lá Bông Sen, bên trong có 01 (một) túi nilon chứa chất tinh thể màu trắng; Thu trên tay trái 01 (một) điện thoại Nokia, lắp 02 sim số 0339.491.210 và 0987.543.565; Thu trong túi áo số tiền 100.000 đồng. Tạm giữ 01 (một) xe mô tô SYM Angel, biển số 14K9-3246.

Tại bản kết luận giám định số 1046/GĐMT ngày 24/12/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng N, kết luận: Chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn C là ma túy; Loại: Methamphetamine; Khối lượng: 0,292 gam; Hoàn lại: 0,24 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn C khai nhận: Khoảng 13 giờ ngày 20/12/2019, Hoàn gọi điện bảo bị cáo đến quán sửa chữa đồ điện tử của Hoàn ở phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P có việc. Khi bị cáo đến, Hoàn rủ bị cáo mua ma túy đá về cùng sử dụng rồi đưa cho bị cáo 300.000 đồng và bảo mua được ma túy thì cầm đến nhà nghỉ Thanh B để sử dụng. Sau đó, bị cáo điều khiển xe mô tô đến phòng trọ của Tầm ở phường Cẩm Th, thành phố Cẩm P mua được 01 gói ma túy đá giá 300.000 đồng của một thanh niên không quen biết. Bị cáo cất túi ma túy đá vào vỏ bao thuốc lá Bông Sen, dắt vào mắc kẹp ở võng xe mô tô, rồi đi đến trước cửa nhà nghỉ Thanh B thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ những vật chứng nêu trên.Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P truy tố đối với bị cáo về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người đúng tội, không oan.

Người chứng kiến chị Phạm Thị Hương L và anh Đỗ Quý C có lời khai tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của nhau, thể hiện việc chị Phạm Thị Hương L và anh Đỗ Quý C là người đã được chứng kiến Công an thành phố Cẩm P kiểm tra, thu giữ vật chứng đối với Nguyễn Văn C đúng như bị cáo Nguyễn Văn C đã khai như nêu trên.

Bản cáo trạng số: 55/CT-VKS - CP ngày 14/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt: Nguyễn Văn C từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt quả tang 20/12/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Căn cứ: Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c Khoản 2 và điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì còn nguyên niêm phong số: 1046/GĐMT và 01 vỏ bao thuốc lá bông sen đã qua sử dụng.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, model: TA-114, kèm 02 sim, 01 pin, đã cũ, đã qua sử dụng và số tiền 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng).

Tại phần tranh luận, bị cáo Nguyễn Văn C không tranh luận vấn đề gì với quan điểm luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P. Bị cáo Nguyễn Văn C thấy ân hận với hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo cải tạo tốt, thành người có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn C, người làm chứng Vũ Khải H và những người chứng kiến chị Phạm Thị Hương L, anh Đỗ Quý C đều không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Đối với người làm chứng và những người chứng kiến chị Phạm Thị Hương L, anh Đỗ Quý C đều đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy quá trình điều tra họ đã có lời khai lưu tại hồ sơ vụ án nên việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ vào Điều 293, Điều 296 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vấn tiến hành xét xử, chủ tọa phiên tòa công bố lời khai của họ tại phiên tòa.

[3]Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn C: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến chị Phạm Thị Hương L, anh Đỗ Quý C và còn phù hợp với các chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm P lập hồi 14 giờ 20 phút ngày 20/12/2019 (bút lục 30, 31); biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ vào hồi 15 giờ 25 phút và 16 giờ 05 phút, ngày 20/12/2019 (bút lục 33, 35); bản kết luận giám định số: 1046/GĐMT ngày 24/12/2019 của Phòng kỹ thật hình sự Công an tỉnh Quảng N (bút lục 27); biên bản kiểm tra điện thoại thu giữ của Nguyễn Văn C vào hồi 15 giờ 45 phút ngày 20/12/2019 (bút lục 34); bản ảnh vật chứng (bút lục 32) cùng với các tài liệu khác cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 14 giờ 05 phút ngày 20/12/2019, tại khu vực tổ 89, khu 9A, phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, Nguyễn Văn C đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,292 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an bắt quả tang. Hành vi của Nguyễn Văn C đã phạm vào tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm P truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn C là có căn cứ nên chấp nhận toàn bộ lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo Nguyễn Văn C.

[4]Hµnh vi ph¹m téi cña bÞ c¸o Nguyễn Văn C đã vi phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Tệ nạn mua bán và sử dụng ma túy hiện nay vẫn đang có chiều hướng gia tăng với nhiều hình thức; thủ đoạn rất tinh vi, nguy hiểm trong khi Nhà nước ta đã và đang đề ra nhiều giải pháp, mở rất nhiều đợt tấn công truy quét và xử lý rất nghiêm khắc đối với tội phạm về ma túy, hành vi mua bán ma tuý của bị cáo đã tiếp tay cho các đối tượng buôn bán ma tuý lớn hoạt động và còn là nguyên nhân phát sinh ra nhiều loại tội phạm hình sự nguy hiểm khác. Bị cáo Nguyễn Văn C là người đã trưởng thành, do không có trình độ văn hóa, ý thức chấp hành pháp luật kém, ngày 26/10/2017 đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm P xử phạt 03 tháng tù nên bị cáo đã nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học và không có ý thức rèn luyện bản thân, sử dụng ma túy đá từ giữa năm 2018, đã bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật mua ma túy để cùng bạn bè sử dụng như bị cáo khai nêu trên. Việc bị cáo bị phát hiện bắt quả tang là ngoài ý muốn của bị cáo nên cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm trước pháp luật.

[5]Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn C thấy: Ngày 24/01/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm P xử phạt 03 tháng tù về tội:“Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong bản án ngày 27/01/2018 nhưng chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cỏo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Nhưng dù có xem xét đến đâu thì việc bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo giáo dục bị cáo và góp phần phòng chống tội phạm nói chung.

[6]Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Nguyễn Văn C là người sử dụng ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]Về vật chứng của vụ án: Quá trình kiểm tra bắt quả tang đối với Nguyễn Văn C, đã thu giữ số vật chứng như nêu trên. Đối với số ma tuý gửi giám định còn hoàn lại 0,24 gam Methamphetamine đựng trong phong bì niêm phong số: 1046/GĐMT, đây là vật cấm lưu hành nên tuyên tịch thu tiêu hủy; đối với vỏ bao thuốc lá bông sen không có giá trị sử dụng nên tuyên tịch thu tiêu hủy; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia và số tiền 100.000 đồng. Quá trình điều tra đã xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên tuyên trả lại cho bị cáo; đối với chiếc xe mô tô biển số 14K9-3246 thu giữ của Nguyễn Văn C, do số khung, số máy, biểu tượng quốc huy trên biển số đã bị đục tẩy, nên không xác định được chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm P đã tách ra để tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[8]Đối với:- Hoàn, theo bị cáo Nguyễn Văn C khai là người đã đưa tiền cho bị cáo đi mua ma túy về cùng sử dụng. Quá trình điều tra xác định là Vũ Khải Hoàn, sinh năm 1970; nơi ĐKNKTT: Tổ 64, khu 6, phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N; chỗ ở: Tổ 49, khu 4B2, phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N. Nhưng Vũ Khải H không thừa nhận việc đưa 300.000 đồng cho bị cáo để mua ma túy; chỉ có lời khai duy nhất của bị cáo, nên không có đủ căn cứ để xử lý.

- Người đàn ông tên T, theo bị cáo Nguyễn Văn C khai đã mua ma túy tại phòng trọ của T. Quá trình điều tra xác định là Lê Đình T, sinh năm 1965; nơi ĐKNKTT: Tổ 2, khu 5B, phường Cẩm Tr, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N; chỗ ở: Tổ 3, khu 4B, phường Cẩm Th, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, hiện vắng mặt tại địa phương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm P tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

- Đối tượng theo bị cáo Nguyễn Văn C khai là người đã bán ma túy cho bị cáo tại phòng trọ của Tầm nhưng do không biết lai lịch, địa chỉ nên không có cơ sở làm rõ.

[9]Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10]Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn C có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 20/12/2019.

Căn cứ: Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c Khoản 2 và điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì còn nguyên niêm phong số: 1046/GĐMT và 01 vỏ bao thuốc lá bông sen đã qua sử dụng.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn C 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, model: TA-114, kèm 02 sim, 01 pin, đã cũ, đã qua sử dụng và số tiền 100.000 đồng (Một trăm nghìn đồng).

(Tiền và vật chứng tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 94/BB-THA ngày 19/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm P).

Áp dụng: Khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm cã mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HS-ST ngày 27/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về