Bản án 32/2020/HS-ST ngày 18/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, TP. HÀ NỘI

BẢN ÁN 32/2020/HS-ST NGÀY 18/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18/02/2020 tại Trụ sở tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 32/2020/HSST, ngày 03 tháng 02 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2020/QĐXX ngày 05 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Thành T, sinh ngày: 16/06/1988. Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu 5, thị trấn Tiền Hải, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: Xe ôm tự do. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 12/12. Bố đẻ: ông Lê Văn Thuần, sinh năm: 1959. Mẹ đẻ: bà Vũ Thị Toan, sinh năm: 1960. Gia đình bị cáo có hai chị em, bị cáo là con út. Vợ: chị Tô Thị Quỳnh Duyên, sinh năm: 1989(đã ly hôn năm 2018). Con: Lê Thành Nam, sinh năm: 2016. Tiền án tiền sự: 01 tiền án.

+ Ngày 30/10/2019, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 16/11/2019. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội – Có mặt tại phiên tòa

Người bị hại:

1. Anh Nguyễn Hữu Nghĩa, sinh năm 1980.

HKTT và nơi ở: Số 115 Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ 25 phút ngày 29/08/2019 do có nhu cầu tìm mua điện thoại di động để phục vụ công việc để làm xe ôm công nghệ Grab Lê Thành T đến cửa hàng mua bán điện thoại di động của anh Nguyễn Hữu Nghĩa tại số 115 Đình Thôn, Mỹ Đình 1, Nam Từ Liêm, Hà Nội. Khi đến nơi không thấy anh Nghĩa có mặt tại cửa hàng, T gặp chị Nguyễn Thị Hậu vợ anh Nghĩa có hỏi chị Hậu về Nghĩa và được biết anh Nghĩa đi vắng nên T đứng lại cửa hàng để xem điện thoại. Quan sát thấy chị Hậu đang ngồi trong nhà không để ý, bên quầy hàng không có người trông giữ, T nhìn thấy trong tủ kính có một hộp giấy bên trong có nhiều loại tiền với nhiều mệnh giá khác nhau. Lợi dụng lúc chị vợ anh Nghĩa sơ hở T nhoài người lên mặt tủ dùng tay trái thò vào hộp đựng tiền và rút 04 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng rồi cất vào trong túi quần bên trái, tổng số tiền T lấy trộm là 2.000.000 đồng. Sau khi lấy được tiền xong T thấy có một vài chiếc điện thoại để trong tủ kính, T tiếp tục lấy đi 01 chiếc điện thoại Iphone 6S Plus màu ghi xám rồi cất vào túi quần bên trái. Sau khi lấy tài sản T đi bộ ra khu vực đường Phạm Hùng và bắt xe khách đi về nhà ở Tiền Hải, Thái Bình. Số tiền trộm cắp được T chi tiêu cá nhân hết còn điện thoại T cất giấu ở nhà riêng. Ngày 30/08/2019, anh Nguyễn Hữu Nghĩa đến Công an phường Mỹ Đình 1 trình báo sự việc và cung cấp dữ liệu camera an ninh tại cửa hàng ghi lại hình ảnh Lê Thành T trộm cắp tài sản.

Ngày 16/11/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm bắt khẩn cấp Lê Thành T về hành vi trộm cắp tài sản.

 trên.

Tại Cơ quan điều tra T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở Vật chứng thu giữ của Lê Thành T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu xám ghi; dung lượng 64GB; imei: 353334076283221 đã qua sử dụng:

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 462 ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Nam Từ Liêm, kết luận: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu ghi xám, imei: 353334076283221 đã qua sử dụng, trị giá: 3.500.000 đồng.

Ngày 24/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm ra Quyết định xử lý vật chứng số 04 trao trả tài sản là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu ghi xám cho anh Nguyễn Hữu Nghĩa là chủ sở hữu. Anh Nghĩa nhận lại điện thoại và không có ý kiến gì.

Về dân sự: Anh Nguyễn Hữu Nghĩa yêu cầu Lê Thành T bồi thường số tiền 2.000.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 14/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố bị cáo Lê Thành T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Lê Thành T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, xác nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo có cơ hội được ở với gia đình và xã hội.

- Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân của bị cáo đã kết luận giữ quan điểm như cáo trạng truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38, khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Lê Thành T từ 09 đến 12 tháng tù.

- Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015. Buộc bị cáo Lê Thành T phải bồi thường cho anh Nguyễn Hữu Nghĩa 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo.

 NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 20 giờ 25 phút ngày 29/08/2019, tại cửa hàng mua bán điện thoại điện thoại di động số 115 Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Lê Thành T đã có hành vi trộm cắp số tiền 2.000.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu ghi xám, dung lượng 64GB trị giá: 3.500.000 đồng của anh Nguyễn Hữu Nghĩa. Tổng giá trị tài sản mà Lê Thành T trộm cắp là 5.500.000 đồng.

Bị cáo Lê Thành T khai nhận hành vi phạm tội. Tài sản chiếm đoạt của anh Nghĩa đã thu hồi một phần và trả cho bị hại; Anh Nghĩa yêu cầu bị cáo T bồi thường tiếp 2.000.000 đồng.

[2] Hành vi nêu trên của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp pháp luật.

[3] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo T xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân. Căn cứ vào bản kết luận định giá tài sản số 462 ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Nam Từ Liêm, kết luận: 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu ghi xám, imei: 353334076283221 đã qua sử dụng, trị giá: 3.500.000 đồng. Tổng trị giá tài sản T trộm cắp là: 5.500.000 đồng, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, nhận thức được hành vi của mình là sai nhưng vẫn cố ý phạm tội. Bị cáo Lê Thành T phạm tội trong thời gian đang chờ xét xử của hành vi trước mà cơ quan điều tra chưa khởi tố vụ án về hành vi phạm tội lần này của bị cáo. Do đó không tổng hợp hình phạt Bản án số 190/2019/HSST ngày 30/10/2019, Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự.

Xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải, do vậy bị cáo được hưởng những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo đã được phân tích ở trên. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội khỏi xã hội một thời gian đủ để bị cáo suy nghĩ về những hành vi của bị cáo đã gây ra.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 24/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm ra Quyết định xử lý vật chứng số 04 trao trả tài sản là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu ghi xám cho anh Nguyễn Hữu Nghĩa là chủ sở hữu. Anh Nghĩa nhận lại điện thoại và yêu cầu T phải bồi thường 2.000.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy yêu cầu bồi thường của anh Nghĩa là có căn cứ cần buộc bị cáo T phải bồi thường cho anh Nghĩa 2.000.000 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng: Không [7] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với vụ án: Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Lê Thành T từ 09 đến 12 tháng tù và tổng hợp hình phạt của bản án trước là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thành T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thành T 12(Mười hai)tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 16/11/2019

- Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Về dân sự: Buộc bị cáo Lê Thành T phải bồi thường cho anh Nguyễn Hữu Nghĩa 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành số tiền trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136, Khoản 1 Điều 331, Khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Về án phí: Bị cáo Lê Thành T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng(Ba trăm nghìn đồng) án phí Dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2020/HS-ST ngày 18/02/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:32/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về