Bản án 32/2019/HSST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 32/2019/HSST NGÀY 27/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/3/2019, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 22/2019/HSST ngày 01/3/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2019/QĐXXST-HS ngày 12/3/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn Tr, tên gọi khác: không, giới tính: Nam; sinh ngày 10/8/1984; Nơi thường trú: thôn C, xã Quang Trung, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: tự do; Trình độ học vấn: 08/12; Bố là ông Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1963, trú tại thôn C, xã Quang Trung, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng và mẹ là bà Đỗ Thị L (đã chết); Gia đình có 04 anh em, bị cáo là thứ nhất; Vợ là chị Phạm Thị H, sinh năm 1989, trú tại xã Hồng Thái Đông, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh; Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 31/5/2005 bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 09/11/2007 bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 27/4/2010 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngoài ra, ngày 27/9/2016 bị cáo còn bị Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Nhận cầm cố tài sản mà theo quy định tài sản đó phải có giấy tờ sở hữu nhưng không có các loại giấy tờ đó”. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 15/12/2018, hiện bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, có mặt tại phiên tòa.

- Những người chứng kiến:

+ Ông Bùi Văn P, sinh năm 1966, trú tại tổ 3, khu Hiệp An 1, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt;

+ Ông Bùi Văn N, sinh năm 1960, trú tại tổ 2, khu Hiệp Thành, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 30 phút ngày 15/12/2018, tại tổ 1, khu Bạch Đằng 1, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Văn Tr bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi tàng trữ để sử dụng 0,304 gam ma túy loại Heroine.

Tại phiên tòa bị cáo Tr khai: Ngày 15/12/2018 bị cáo đi xe khách sang thành phố Hải Phòng mua ma túy về sử dụng, bị cáo bị gãy chân nên mua ma túy về sử dụng để giảm đau, khi xuống xe bị cáo gặp một người đàn ông thấy giống người nghiện nên bị cáo hỏi người này có biết chỗ bán ma túy không, người này bảo có, bị cáo bèn đưa cho người này 300.000 đồng, sau đó người này đưa cho bị cáo 03 gói giấy màu tím, bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, kiểm tra thấy đúng là ma túy, bị cáo bèn cho 03 gói giấy này vào trong 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Vinataba màu vàng và cất giấu vào túi áo phía trước bên phải, sau đó bị cáo đi bộ đến một cửa hàng tạp hóa gần đó mua một bơm kim tiêm y tế, rồi đi đón xe khách về Quảng Ninh. Khi đi đến khu vực thuộc tổ 1, khu Bạch Đằng 1, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí thì bị cáo bị lực lực chức năng kiểm tra bắt quả tang.

Bị cáo Tr khai quá trình điều tra bị thu giữ 03 gói giấy chứa ma túy, 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone màu xám, 27.000 đồng, 01 bơm kim tiêm y tế, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Vinataba màu vàng. Bị cáo khai chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone là của bị cáo và không dùng để liên lạc mua ma túy, chiếc điện thoại này cơ quan điều tra đã trả cho gia đình bị cáo, đối với 27.000 đồng là tiền của bị cáo lao động mà có, không liên quan đến việc phạm tội, 01 bơm kim tiêm y tế bị cáo mua để sử dụng ma túy, 01 vỏ bao thuốc lá dùng để đựng ma túy.

Bị cáo cảm thấy rất ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và đề nghị được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Người chứng kiến là ông Bùi Văn P vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra có lời khai thể hiện: Ngày 15/12/2018 khi ông đang đi bộ ngang qua cổng công an phường Phương Nam, thành phố Uông Bí thì được lực lượng chức năng mời vào chứng kiến việc kiểm tra hành chính một nam thanh niên, sau này ông được biết người này là bị cáo Nguyễn Văn Tr, tại đây lực lượng chức năng đã phát hiện và thu giữ của bị cáo Tr 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Vinataba, bên trong có 03 gói giấy nhỏ màu tím, trong các gói giấy này đều chứa chất bột màu trắng dạng cục, ngoài ra còn thu giữ 01 bơm kim tiêm, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám và số tiền 27.000 đồng, khi kiểm tra bị cáo Tr khai nhận số bột màu trắng dạng cục này là ma túy mua ở Hải Phòng để sử dụng với giá là 300.000 đồng.

Sau đó cơ quan chức năng niêm phong 03 gói giấy nhỏ màu tím chứa chất bột màu trắng dạng cục vào một phong bì và ông được ký tên là người chứng kiến trên đó.

Người chứng kiến là ông Bùi Văn N vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra có lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 24 ngày 18/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: mẫu vật thu giữ của bị cáo Tr là ma túy, loại Heroine, tổng khối lượng là 0,304 (Không phẩy ba không bốn) gam.

Tại cáo trạng số 36 ngày 28/02/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh truy tố bị cáo Nguyễn Văn Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Tr từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày bị bắt 15/12/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 bơm kim tiêm y tế, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Vinataba, phong bì niêm phong số 24/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Ninh. Trả lại bị cáo số tiền 27.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Cơ quan điều tra thành phố Uông Bí, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay về cơ bản giống với nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố đối với bị cáo, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến, phù hợp với các chứng cứ cơ quan điều tra đã thu thập được, vì vậy đủ cơ sở kết luận: Hồi 18 giờ 30 phút ngày 15/12/2018, tại tổ 1, khu Bạch Đằng 1, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Văn Tr bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi tàng trữ để sử dụng 0,304 gam ma túy loại Heroine.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn Tr đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn Tr là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Chất ma túy là chất kích thích gây nghiện nguy hiểm cho xã hội nên việc quản lý, sử dụng chất ma túy phải tuân theo các quy định của pháp luật, trong vụ án này bị cáo là người thành niên, có đầy đủ khả năng nhận thức, biết rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý phạm tội, vì vậy cần phải lên một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe giáo dục đối với bị cáo nói riêng và đảm bảo tính phòng ngừa tệ nạn ma túy trong xã hội nói chung.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Hình phạt chính:

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra trong quá trình bị tạm giam bị cáo đã tích cực hợp tác với cơ quan công an trong việc phát hiện tội phạm nên được áp dụng thêm điểm t, khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 31/5/2005 bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 09/11/2007 bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Đến ngày 27/4/2010 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đến ngày 30/6/2012 bị cáo chấp hành xong án phạt tù.

Theo biên bản xác minh ngày 29/01/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện An Lão, thành phố Hải Phòng thì ngày 04/5/2006 bị cáo đã thi hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm theo bản án ngày 31/5/2005 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Ngày 16/9/2009 bị cáo đã thi hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm theo bản án ngày 09/11/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Về án phí theo bản án ngày 27/4/2010 chưa có quyết định thi hành án, theo quy định không coi là có án tích. Ngoài ra ngày 27/9/2016 bị cáo còn bị Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Nhận cầm cố tài sản mà theo quy định tài sản đó phải có giấy tờ sở hữu nhưng không có các loại giấy tờ đó”.

Sau khi xem xét hành vi phạm tội của bị cáo và đánh giá nhân thân cùng các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để bị cáo tập trung cải tạo tu dưỡng để trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[3.2] Về hình phạt bổ sung: khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định người phạm tội có thể bị phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra thu giữ của bị cáo Tr 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone màu xám, 03 gói giấy nhỏ màu tím chứa ma túy loại Heroine, 01 kim tiêm y tế đã qua sử dụng, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Vinataba và 27.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam phát hành;

Xét thấy: Chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone không liên quan đến việc phạm tội đã được trả cho gia đình bị cáo nên không đề cập giải quyết, 27.000 đồng là tiền của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Đối với 0,304 gam ma túy sau khi gửi đi giám định còn hoàn lại 0,13 gam trong phong bì niêm phong số 24/GĐMT là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy, 01 kim tiêm y tế và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Vinataba đều không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Tr, hiện không rõ lai lịch địa chỉ nên không có căn cứ xử lý.

[6] Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

[7] Bị cáo phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Tuyên bố: Nguyễn Văn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Văn Tr 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 15/12/2018.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 24/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Ninh, 01 kim tiêm y tế đã qua sử dụng, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Vinataba màu vàng; Trả lại cho bị cáo Tr 27.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/03/2019 giữa Chi cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí và Cơ quan điều tra công an thành phố Uông Bí)

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Tr phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HSST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:32/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về