Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 32/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 08/08/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2019 ngày 25/6/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 14/2019/QĐHPT ngày 19 tháng 7 năm 2019 về việc ly hôn giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị T, sinh năm 1984 (vắng mặt).

Đa chỉ: Thôn L, xã T, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn B , sinh năm 1982 (có mặt).

Đa chỉ: Thôn A , xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện cũng như bản tự khai ngày 04/04/2019 chị T trình bày:

Về diễn biến quan hệ hôn nhân và gia đình: Chị kết hôn với anh B vào ngày 13/6/2003 có đăng ký kết hôn tại UBND xã S là hôn nhân tự nguyện. Sau khi cưới vợ chồng tôi chung sống cùng với bố mẹ chồng, thời gian sống hạnh phúc với nhau đưọc khoảng 3 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh B chơi bời cờ bạc và đánh đập chị nhiều lần đến năm 2006 thì chị về nhà mẹ đẻ ở từ đó sống ly thân với anh B, nay tôi thấy tình cảm vợ chồng không còn tôi xin ly hôn anh B.

Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn: Vợ chồng chị có 01 con chung là Nguyễn Hải N, sinh ngày 21/9/2004, hiện đang ở với anh B. Nếu ly hôn, chị xin nuôi con nếu anh B không nhất trí thì đề nghị Tòa giải quyết. Nếu chị được nuôi con, chị không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị T xác định không có nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Ý kiến anh B: Tại bản tự khai ngày 14/4/2019 anh xác định lời khai của chị T về thời gian kết hôn, cũng như việc đăng ký là đúng.

Về tình cảm: Anh không nhất trí ly hôn với chị T vì anh vẫn còn tình cảm vợ chồng và vì con. Về thời gian sống ly thân anh xác định vợ chồng sống ly thân từ năm 2010, về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, anh xác định là do chị T quan hệ với người khác nên vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay.

Về con chung: Anh nhất trí như ý kiến của chị T về họ tên ngày tháng năm sinh. Anh không nhất trí để chị T nuôi con vì con ở với anh nhiều năm rồi, anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con vì anh có đủ điều kiện nuôi con hiện nay con anh là nhân viên phục vụ nhà hàng ở Quảng Ninh.

Về tài sản chung, công nợ chung: Anh và chị T tự giải quyết nếu không được sẽ yêu cầu tòa giải quyết .

Tại phiên tòa: Đại diện VKS phát biểu quan điểm về việc tuân theo Pháp luật của Thẩm phán, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, chị T đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70,71, 234 BLTTDS. Anh B không thực hiện đầy đủ các quy định tại các Điều 70,72, 234.

Về đường lối đề nghị như sau, căn cứ: Các Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271, và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị T.

Xử ly hôn giữa chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn B.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Hải N, sinh ngày 21/9/2004 cho anh B trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng đến khi cháu N đủ 18 tuổi. Chị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh B.

3. Về tài sản chung, về công nợ chung: Không giải quyết về tài sản chung và công nợ chung.

4. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T phải nộp 300.000 đồng theo quy định của Pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình về việc yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung của chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn B. Tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

2. Về thủ tục tố tụng: Đối với các đương sự, từ khi thụ lý đơn khởi kiện của chị T, Tòa án nhân dân huyện N đã gửi thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho các đương sự. Đến ngày 25/07/2019 Tòa án nhân dân huyện N đã quyết định đưa vụ án ra xét xử.

3. Về hôn nhân: Chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn B kết hôn với nhau vào ngày 13/6/2003 có đăng ký kết hôn tại UBND xã S là hôn nhân tự nguyện. Sau khi cưới vợ chồng họ chung sống hạnh phúc với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mau thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn thì chị T và anh B trình bày dù có khác nhau nhưng trên thực tế thì chị T và anh B đã sống ly thân gần 10 năm không còn quan tâm và trách nhiệm gì đến nhau nữa. Quan hệ vợ chồng của hai người chỉ tồn tại trên danh nghĩa pháp lý. Tình cảm vợ chồng, hạnh phúc gia đình không còn khả năng hàn gắn. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T xử ly hôn giữa chị và anh B để hai người sớm ổn định cuộc sống.

4. Về con chung và cấp dưỡng nuôi con: Từ thực tế cuộc sống, cháu N là con chung của vợ chồng chị T đã ở với anh B nhiều năm. Xét việc giao con chung là Nguyễn Hải N, sinh ngày 21/9/2004, hiện đang ở với anh B cho anh B nuôi là phù hợp. Tuy cháu N chưa trưởng thành nhưng hiện nay cháu N đã nghỉ học, đi làm và có thu nhập, tự chăm lo cho cuộc sống riêng của mình, vì vậy chị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh B.

5. Về tài sản chung, về công nợ chung: Từ lời khai của chị T và anh B và yêu cầu không đề nghị Tòa giải nên không đặt ra việc giải quyết.

Đi với khoản nợ tiền của thôn A theo yêu cầu của ông Trưởng thôn Nguyễn Văn G, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết, nếu có tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ kiện khác. Vì vậy Hội đồng xét xử không đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

6. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T phải nộp theo quy định của Pháp luật. Số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị T đã nộp được chuyển sang án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Các Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Xử ly hôn giữa chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn B

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Hải N, sinh ngày 21/9/2004, hiện đang ở với anh B cho anh B trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc cho đến khi đủ 18 tuổi. Chị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh B.

Sau khi ly hôn chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị T cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh B trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Trường hợp chị T lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì anh B có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con.

3. Về tài sản chung, về công nợ chung: Không giải quyết về tài sản chung, về công nợ chung.

4. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T phải nộp 300.000đ, chị đã nộp 300.000đ tạm ứng án phí tại biên lai thu số: 0000082 ngày 26/03/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N nay chuyển sang án phí.

Án xử công khai sơ thẩm, anh B được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:32/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về