Bản án 29/2018/HNGĐ-ST ngày 29/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG TÀI, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 29/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29/10/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lương Tài xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 84/2018/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2018 về việc: “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2018/QĐXX - ST, ngày 06/9/2018 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Vũ Minh Phương, sinh năm 1987

Địa chỉ : Thôn X, xã L, huyện D, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt tại phiên tòa)

* Bị đơn: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1984

Địa chỉ: Thôn K, xã M, huyện N, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản ghi lời khai có trong hồ sơ vụ án, chị Vũ Minh P và anh Nguyễn Văn B thống nhất trình bày: Anh chị kết hôn vào ngày 07/12/2015 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và được UBND xã K, huyện D, tỉnh Lâm Đồng đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau ngày cưới anh chị về chung sống với nhau ngay, tình cảm vợ chồng ban đầu hòa thuận, hạnhphúc.

Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn theo chị P trình bày: Sau khi kết hôn thì anh chị làm ăn và sinh sống tại Lâm Đồng nhưng anh là người gia trưởng, lười lao động, hay tụ tập bạn bè uống rượu mà không chịu tu chí làm ăn. Chị khuyên nhủ, động viên thì anh B lại tự ái và bỏ về Bắc Ninh ở từ tháng 12 năm 2017. Chị gọi điện khuyên anh vào Lâm Đồng để vợ chồng đoàn tụ cùng nhau làm ăn nhưng anh B không nghe. Đầu tháng 4 năm 2018 chị từ Lâm Đồng ra nhà anh B để hai vợ chồng trực tiếp nói chuyện tìm hướng đoàn tụ nhưng chị và anh B cũng không tìm được tiếng nói chung, anh B và chị có to tiếng cãi cọ và xúc phạm lẫn nhau, anh B vứt bỏ hết quần áo, đồ đạc của chị ra ngoài sân và đuổi chị ra khỏi nhà khiến chị phải ra ngoài thuê nhà trọ ở. Sau đó anh B cũng không gọi điện thoại xin lỗi chị. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn giữa chị và anh B không thể hàn gắn nên chị tha thiết xin được ly hôn anh B.

Theo anh B trình bày: Trong thời gian anh về Bắc Ninh ở thì anh và chị Pvẫn liên lạc B thường. Đến đầu tháng 4 năm 2018 thì chị Pcó về nhà anh và vợ chồng xảy ra cãi cọ nên chị Pđã tự ý bỏ đi thuê nhà trọ ở, anh có gọi nhưng chị Pkhông về. Nay chị Plàm đơn xin ly hôn, anh xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh và chị Pchưa đến mức trầm trọng nên anh không đồng ý ly hôn với chị Phương.

Về con chung: Chị P và anh B trình bày: Vợ chồng chưa có con chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và công nợ: Chị P và anh B đều trình bày: Vợ chồng không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Tài phát biểu quan điểm cho rằng: Việc Tòa án tiến hành thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, đúng thời hạn quy định của pháp luật. Việc Tòa án thu thập chứng cứ và ra các văn bản tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn chưa chấp hành đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đã được Tòa án tống đạt và niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử cũng như giấy triệu tập phiên tòa hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do nên HĐXX vẫn đưa vụ án ra xét xử là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Tài đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 147, 227, 228, 235, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Minh P : Xử cho chị Vũ Minhh P được ly hôn anh Nguyễn Văn B.

Về án phí: Chị Vũ Minh P phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa. Sau khi thảo luận và nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình Tòa án thu thập chứng cứ, chị Vũ Minh P trình bày: Do điều kiện ở xa và có công việc bận nên chị không thể tham gia phiên tòa được và chị đã có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn là anh Nguyễn Văn B đã được Tòa án tống đạt và niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập phiên tòa hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt chị P và anh B là phù hợp với quy định tại các Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Tại phiên tòa, qua xem xét lời trình bày của chị Phương, anh B được Chủ tọa phiên tòa công bố cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, HĐXX nhận thấy: Chị Vũ Minh P và anh Nguyễn Văn B kết hôn vào ngày 07/12/2015 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Lát, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng nên đây được coi là hôn nhân hợp pháp. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, vợ chồng có quan điểm sống trái ngược nhau và đã sống ly thân từ tháng 12 năm 2017 đến nay. Nay chị P xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và không còn khả năng hàn gắn nên chị tha thiết xin được ly hôn với anh B. Mặc dù anh B không đồng ý ly hôn và mong muốn vợ chồng về đoàn tụ nhưng hiện tại anh chị cũng không ở cùng nhau, chị P thì sống ở Lâm Đồng còn anh B ở Bắc Ninh, anh B cũng không đưa ra được biện pháp gì để vợ chồng về đoàn tụ; hơn nữa khi Tòa án triệu tập anh B để hòa giải đoàn tụ thì anh vắng mặt chứng tỏ anh cũng B không có ý thức để đoàn tụ với chị Phương. Do vậy cần xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Pvà anh B đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xử cho chị Pđược ly hôn anh B là phù hợp với quy định tại Điều 51,56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị Pvà anh B trình bày: Vợ chồng chưa có con chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Do vậy HĐXX không đặt ra xem xét.

Về tài sản và công nợ: Chị Pvà anh B trình bày: Vợ chồng không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Do vậy HĐXX không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Chị Pphải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 147, 227, 228, 235, 238, 264, 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Minh Phương: Xử cho chị Vũ Minh Pđược ly hôn anh Nguyễn Văn B.

2. Về án phí: Chị Vũ Minh P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị Pđã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001002 ngày 20/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lương Tài.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Minh P và anh Nguyễn Văn B vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 29/2018/HNGĐ-ST ngày 29/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:29/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lương Tài - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về