Bản án 32/2018/HSST ngày 14/05/2018 về tội cướp giật tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH LONG, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 32/2018/HSST NGÀY 14/05/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 21/2018/HSST ngày 17/4/2018, đối với bị cáo:

* Họ và tên: Nguyễn Văn P, sinh năm 1990; nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm 1968 và bà Trương Thị Kiều O, sinh năm 1970; bị cáo chưa có vợ con; anh chị em ruột: 03 người, người lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tạm giữ, tạm giam ngày 27/01/2018 đến nay (có mặt).

* Người bị hại: Chị Trương Thị Ánh H, sinh năm 1984; địa chỉ đường L, Phường M, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long (có mặt)

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Trương Thị Ngọc B; địa chỉ khóm M, Phường T, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long. (có mặt)

- Nguyễn Văn C; địa chỉ ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Vĩnh Long. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 27/01/2018 chị Trương Thị Ánh H điều khiển xe mô tô biển số 64C1-095.04 chở con gái là Nguyễn Xuân P ngồi phía sau đi trên đường L thuộc Phường M, thành phố V, tinh Vĩnh Long theo hướng từ chợ đêm Phường M về hướng cầu L; khi đến số nhà 32, đường L (nhà của chị H) chị H cho xe giảm tốc độ và chuyển hướng sang đường thì bị Nguyễn Văn P điều khiển xe mô tô biển số 64B1-981.42 đi cùng chiều từ phía sau áp sát vào và dùng tay trái giật sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng của chị H rồi nhanh chóng tăng ga tẩu thoát. Lúc này chị H truy hô “Cướp cướp” và điểu khiển xe mô tô biển số 64C1-095.04 đuổi theo P, thấy vậy, nhân dân và lực lượng Công an Phường M, thành phố V, tinh Vĩnh Long đang làm nhiệm vụ truy đuổi cùng với chị H; P chạy qua nhiều tuyến đường để trốn thoát, nhưng đến khu vực Phường T, thành phố V, tinh Vĩnh Long thì bị Công an Phường T, thành phố V, tinh Vĩnh Long kết hợp truy đuổi, P chạy đến khu vực đường nhựa thuộc khóm H, Phường B, thành phố V, tinh Vĩnh Long thì bị té xuống ao, nên bị quần chúng và lực lượng Công an bắt giữ.

Theo kết luận định giá tài sản số: 20/HĐĐG&TTHS, ngày 29/01/2018 của Hội đồng định giá và Tố tụng hình sự thành phố Vĩnh Long kết luận tài sản mà Nguyễn Văn P chiếm đoạt của chị H có giá trị tổng cộng bằng 12.397.000đ.

Tại bản cáo trạng số: 24/CT-VKS, ngày 12/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn P về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Bị cáo Nguyễn Văn P thừa nhận các lời khai trong quá trình điều tra là do bị cáo tự khai và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, tài sản chiếm đoạt đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long đã nêu, thống nhất với kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản, thống nhất quan điểm luận tội của Kiểm sát viên; bị cáo đã thấy được lỗi của mình, hứa không tái phạm và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bị hại Trương Thị Ánh H đề nghị Hội đồng xét xử đúng theo quy định của pháp luật. Về trách nhiệm dân sự, chị H đã thỏa thuận và nhận tiền bồi thường xong, nay không có yêu cầu gì khác.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trương Thị Ngọc B và Nguyễn Văn C đều không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm và khẳng định nội dung cáo trạng truy tố bị cáo Nguyễn Văn P là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo P phạm tội “Cướp giật tài sản”; áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo P mức án từ 03 (Ba) năm đến 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Về xử lý vật chứng đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 áo thun và 01 quần jean.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thành phố Vĩnh Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời trình bày và khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn P tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, lời khai của những người bị hại, người làm chứng, vật chứng, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 27/01/2018, bị cáo P có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 64B1-981.42 lưu thông cùng chiều với chị H, đến đoạn đường L thuộc Phường M, thành phố V, tinh Vĩnh Long lợi dụng sự thiếu cảnh giác trong lúc chị H chuyển hướng xe, bị cáo đã dùng tay giật sợi dây chuyền bằng vàng 18k trên cổ chị H rồi tẩu thoát; tổng giá trị tài sản chiếm đoạt bằng 12.397.000đ (Mười hai triệu ba trăm chín mươi bảy ngàn đồng); việc bị cáo dùng phương tiện xe mô tô để thực hiện hành vi phạm tội với người đang đi xe mô tô là có thể nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại hoặc của người khác. Do đó, hành vi của bị cáo P đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 mà cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long đã đề nghị truy tố đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn P là rất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, phạm tội với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của người bị hại; hành vi của bị cáo còn gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây hoang mang, bức xúc trong quần chúng nhân dân, bị xã hội lên án và pháp luật nghiêm cấm. Bị cáo là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đã nhận thức được hành vi mà mình thực hiện là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thực hiện với quyết tâm cao, nhằm mong muốn có được tài sản đem bán lấy tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân mà không chịu lao động lương thiện. Đây nói lên sự xem thường pháp luật của bị cáo, do đó cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo thì mới có tác dụng răn đe, giáo dục cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, thấy được hành vi sai trái của mình mà tỏ ra ăn năn hối cải; đã tích cực tác động gia đình bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả cho người bị hại xong; bản thân của bị cáo có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự là hai năm. Xét thấy, có đủ cơ sở cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định cho bị cáo học tập, cải tạo để sửa chữa trở thành người có ích cho xã hội sau này.

[5] Về xử lý vật chứng: Thu giữ của bị cáo 01 áo thun và 01 quần jean. Xét thấy đây là tài sản của bị cáo nhưng không còn giá trị sử dụng, tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo cũng không có yêu cầu nhận lại nên tịch thu để tiêu hủy.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Trương Thị Ánh H đã thỏa thuận bồi thường xong, không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn P nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

I. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 03 (Ba) năm tù.

Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 27/01/2018.

II. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu để tiêu hủy 01 áo thun tay ngắn và 01 quần Jean dài (theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, tinh Vĩnh Long).

III. Về trách nhiệm dân sư: Không có yêu cầu, nên không xem xét.

III. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn P nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2018/HSST ngày 14/05/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:32/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về