Bản án 32/2018/HNGĐ-ST ngày 24/04/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 32/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 73/2018/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 01 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số: 23/2018/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Hồ Thanh T, sinh năm 1988. (Có mặt)

Nơi cư trú: số 141/34/141, khóm 1, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng T, sinh năm 1986. (Vắng mặt)

Nơi cư trú: số 72/1, khóm M, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/01/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Hồ Thanh T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Hoàng T do quen biết sau đó tự nguyện chung sống như vợ chồng từ năm 2014, nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.

Anh chị chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh T hay ghen vô cớ và ăn chơi, chị đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh T vẫn không sửa đổi. Nay nhận thấy tình cảm không còn, không thể hàn gắn nên chị yêu cầu Tòa án không công nhận mối quan hệ giữa chị và anh T là vợ chồng.

- Về quan hệ con chung: Chị và anh T có 02 (hai) con chung tên Nguyễn Hoàng Thiên A, sinh ngày 29/11/2017 và Nguyễn Hoàng Thiên Â, sinh ngày 29/11/2017. Hiện nay hai cháu đang chung sống với anh T nên chị sẽ để anh T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về phần cấp dưỡng cho con chung, nếu anh T không yêu cầu chị cấp dưỡng nuôi con thì chị đồng ý và thực tế chị vẫn sẽ cấp dưỡng cho hai con chung theo khả năng của mình khi tới lui thăm cháu.

- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị và anh T không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Theo lời khai trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Hoàng T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị T do quen biết và bắt đầu chung sống như vợ chồng từ năm 2014, và không có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.

Sau khi kết hôn anh chị chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Về nguyên nhân mâu thuẫn như chị T đã trình bày thì đúng. Nay anh cũng nhận thấy phần sai của anh nên anh mong muốn chị T cho anh cơ hội để anh sửa đổi cùng lo cho con chung. Nếu chị T vẫn kiên quyết yêu cầu Tòa án giải về việc không công nhận giữa anh và chị T là quan hệ vợ chồng thì anh yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

- Về quan hệ con chung: Anh thống nhất với chị T, trong quá trình chung sống anh và chị T có 02 (hai) con chung tên Nguyễn Hoàng Thiên A, sinh ngày 29/11/2017 và Nguyễn Hoàng Thiên Â, sinh ngày 29/11/2017. Hiện nay hai cháu đang chung sống với anh.

Giấy khai sinh của hai con chung chị T cung cấp cho Tòa án chỉ ghi nhận tên mẹ là chị T, không có tên cha vì anh và chị T không có đăng ký kết hôn, nhưng anh xác định hai cháu là con chung của anh và chị T.

Do anh đang trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu và chị T đã không còn chung sống cùng nhà với anh, nên anh thống nhất với ý kiến của chị T là anh sẽ tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung. Anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi hai con chung mà thực tế chị T thăm nom cháu có thể lo cho hai cháu theo khả năng của mình.

- Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Anh thống nhất với chị T, anh chị không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Hoàng T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Hoàng T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Hồ Thanh T và anh Nguyễn Hoàng T tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2014, nay tuy đã có đủ điều kiện kết hôn nhưng vẫn chưa đăng ký kết hôn. Như vậy, hôn nhân giữa chị Nguyễn Hồ Thanh T và anh Nguyễn Hoàng T đã vi phạm Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về đăng ký kết hôn. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét đến mâu thuẫn, theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật chung sống với nhau như vợ như chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng. Do đó, tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Hồ Thanh T và anh Nguyễn Hoàng T.

[2] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Hồ Thanh T và anh Nguyễn Hoàng T thống nhất có 02 (hai) con chung tên Nguyễn Hoàng Thiên A, sinh ngày 29/11/2017 và Nguyễn Hoàng Thiên Â, sinh ngày 29/11/2017 (Theo giấy khai sinh do chị Nguyễn Hồ Thanh T cung cấp cho Tòa án).

Do vợ chồng chưa đăng ký kết hôn, nên chị T chỉ kê khai tên mẹ mà không ghi tên cha vào tên khai sinh của hai con chung và hiện nay hai cháu đang sống cùng với anh T. Chị T đồng ý để anh T tiếp tục nuôi dưỡng và chị không cấp dưỡng nuôi con do anh T không yêu cầu. Anh T đồng ý tiếp tục chăm sóc hai con chung và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy, do cả hai thống nhất 02 (hai) cháu tên Nguyễn Hoàng Thiên A, sinh ngày 29/11/2017 và Nguyễn Hoàng Thiên Â, sinh ngày29/11/2017 (theo Bản sao Trích lục khai sinh số: 448/TLKS- BS tên Nguyễn Hoàng Thiên A, sinh ngày 29/11/2017 và số: 449/TLKS-BS tên Nguyễn Hoàng Thiên Â, sinh ngày 29/11/2017 do UBND phường Mỹ Thới cấp cùng ngày 20/12/2017) là con chung nên xác định trong quá trình chung sống chị T và anhT có 02 (hai) con chung nêu trên.

Hiện anh T đang nuôi dưỡng hai cháu và cả hai thống nhất để anh T tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung. Hội đồng xét xử xét thấy sự thỏa thuận giữa chị T và anh T hoàn toàn tự nguyện và không trái quy định pháp luật nên công nhận sự thỏa thuận trên, anh T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung tên Nguyễn Hoàng Thiên A, sinh ngày 29/11/2017 và Nguyễn Hoàng Thiên Â, sinh ngày 29/11/2017.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung do anh Nguyễn Hoàng T không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh Nguyễn Hoàng T phải tạo điều kiện cho chị Nguyễn Hồ Thanh T thăm nom, chăm sóc, giáo dục hai con chung. Việc nuôi con không cố định.

 [3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Hồ Thanh T và anh Nguyễn Hoàng T thống nhất trình bày không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về quan hệ tài sản chung và nợ chung.

[4] Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Hồ Thanh T phải nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004962 ngày 29/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự Tp.Long Xuyên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 2 Điều 244; khoản 1 Điều 273; Điều 278 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 9, Điều 14, Điều 15, Điều 16, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử vắng mặt anh Nguyễn Hoàng T.

Tuyên xử:

 [1] Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Hồ Thanh T và anh Nguyễn Hoàng T.

[2] Về quan hệ con chung: chị Nguyễn Hồ Thanh T và anh Nguyễn Hoàng T có 02 (hai) con chung tên Nguyễn Hoàng Thiên A, sinh ngày 29/11/2017 và Nguyễn Hoàng Thiên Â, sinh ngày 29/11/2017.

Công nhận sự thỏa thuận giữa chị Nguyễn Hồ Thanh T và anh Nguyễn Hoàng T về việc anh Nguyễn Hoàng T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng 02 (hai) con chung tên Nguyễn Hoàng Thiên A, sinh ngày 29/11/2017 và Nguyễn Hoàng Thiên Â, sinh ngày 29/11/2017.

Anh Nguyễn Hoàng T phải tạo điều kiện cho chị Nguyễn Hồ Thanh T thăm nom, chăm sóc, giáo dục hai con chung. Việc nuôi con không cố định. Chị Nguyễn Hồ Thanh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung do anh Nguyễn Hoàng T không yêu cầu.

[3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: chị Nguyễn Hồ Thanh T và anh Nguyễn Hoàng T thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Hồ Thanh T phải chịu số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004962 ngày 29/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự Tp.Long Xuyên.

[5] Chị Nguyễn Hồ Thanh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Hoàng T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 32/2018/HNGĐ-ST ngày 24/04/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:32/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về