TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH – TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 32/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/07/2018 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 23/7/2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 58/2017/TLST – HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2017, về việc “xin ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2018/QĐST - HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2018/QĐST - HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Thị H, sinh năm: 1978 (có mặt)
Địa chỉ: Ấp K liêu, xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước
Chổ ở hiện nay: Ấp Chà Là, xã Lộc Thịnh, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước
2. Bị đơn: Ông Lâm D, sinh năm: 1972 (vắng mặt không có lý do)
Địa chỉ: Ấp K liêu, xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 09 tháng 02 năm 2018, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà H tự nguyện chung sống với ông Lâm D và đăng ký kết hôn tại UBND xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước vào ngày 19 tháng 5 năm 2004. Trước khi kết kôn hai bên đã không tìm hiểu nhau mà qua mai mối, sau khi kết hôn hai vợ chồng sống tự lập tại ấp K Liêu, xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước. Vợ chồng sống hạnh phúc đến 2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cãi nhau nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2017 cho đến nay. Nay bà H xin ly hôn với ông Lâm D.
Về con chung: Có hai người con chung, con tên Lâm Thị Mai Duyên, sinh ngày 16/4/1999 và người con tên Lâm Rít Chi Na, sinh ngày 28/7/2004. đối với cháu Duyên hiện đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết, đối với cháu Na thì bà H xin được nuôi dưỡng, không yêu cầu ông Doon cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay bà H không có mang thai, vợ chồng không có con nuôi.
Về tài sản chung: Bà H và ông Lâm D tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có.
Bị đơn ông Lâm D vắng mặt không có lý do:
Đối với bị đơn ông Lâm D, trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không có mặt làm việc. Theo biên bản xác minh ngày 09/4/2018 xác minh tại Công an xã Lộc Thành xác định: Ông Lâm D có đăng ký hộ khẩu tại ấp K Liêu, xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước. Hiện vẫn còn hộ khẩu và còn sinh sống tại địa phương.
Trên cơ sở các tài liệu thu thập, xác minh, Tòa án đã tiền hành thủ tục cấp tống đạt các văn bản tố tụng trong suốt quá trình giải quyết vụ án cho bị đơn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên bị đơn vẫn không có văn bản trình bày ý kiến, không có mặt theo các thông báo, quyết định của Tòa án.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:
Về việc chấp hành tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc xác định mối quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thực hiện thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát, thành phần tham gia xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét sử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh không có kiến nghị về tố tụng.
Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Thị H. Cho bà H được ly hôn với ông Lâm D.
Về con chung: Bà H nuôi con tên Lâm Rít Chi Na, sinh ngày: 28/7/2004. không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.
Về tài sản chung: Bà H không yêu cầu nên không xem xét.
Về nợ: Không có nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
Nguyên đơn bà Thị H có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh giải quyết ly hôn với ông Lâm D. Xét ông Lâm D cư trú tại ấp K liêu, xã Lộc Thành, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.
Tại phiên tòa, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Thị H và ông Lâm D tự nguyện sống chung sống có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn (đăng ký lại) số 07 ngày 19/02/2008 tại Ủy ban nhân dân xã Lộc Thành nên có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Thị H và ông Lâm D là hợp pháp.
[3] Đối với yêu cầu xin ly hôn của bà H, Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về việc mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và quyết định đưa vụ án ra xét xử, tuy nhiên bị đơn vẫn không giao nộp tài liệu, chứng cứ cũng không có lời khai trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không có mặt tại phiên tòa, nên Hội đồng xét xử căn cứ lời khai của nguyên đơn và toàn bộ tài liệu chứng cứ nguyên đơn giao nộp cho Tòa án và tài liệu chứng cứ do Tòa án thu thập được để xem xét.
[4] Căn cứ lời khai của bà H thì mâu thuẫn phát sinh từ năm 2012, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cãi nhau nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2017 cho đến nay. Tại phiên tòa bà H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và xác định không còn tình cảm với ông Lâm D. Đối với ông Lâm D, trong quá trình giải quyết vụ án ông Lâm D không đến làm việc cũng như tham gia phiên hòa giải để đưa ý kiến và biện pháp hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng, bà H đã làm đơn xin ly hôn ông Doon hai lần, như vậy tình trạng hôn nhân giữa bà Thị H và ông Lâm D đã trầm trọng, không có khả năng hàn gắn, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H.
[5] Về con chung: Bà H và ông Doon có hai người con chung, một người con tên Lâm Thị Mai Duyên, sinh ngày 16/4/1999 và người con tên Lâm Rít Chi Na, sinh ngày 28/7/2004. Khi ly hôn, đối với cháu Duyên hiện đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, đối với cháu Na bà H xin được nuôi dưỡng. Xét thấy cháu Na hiện đang sống chung với bà H, qua biên bản lấy lời khai thì cháu Na có nguyện vọng được sống chung với bà H, như vậy nên giao cho bà H nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình. Bà H không yêu cầu ông Lâm D cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về tài sản chung: Bà H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về nợ: Không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp nhận định của Tòa án nên chấp nhận.
[9]. Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy bà H chịu số tiền án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng:
- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của bà Thị H;
1. Về quan hệ hôn nhân: bà Thị H được ly hôn với ông Lâm D.
2. Về con chung: Giao cho bà H nuôi con tên con tên Lâm Rít Chi Na, sinh ngày 28/7/2004.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người khơng trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Không đặt ra
4.Về tài sản chung: Bà H không yêu cầu nên không xem xét.
5. Về nợ: Không có nên không xem xét.
6. Về án phí: Bà H chịu 300.000đ án phí Hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lộc Ninh theo biên lai thu tiền số 0005709 ngày 05/3/2018.
Nguyên đơn có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 32/2018/HNGĐ-ST ngày 23/07/2018 về xin ly hôn
Số hiệu: | 32/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/07/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về