Bản án 28/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM NÔNG - TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 28/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ XIN LY HÔN

Vào ngày 31/10/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 267/2018/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 8 năm 2018, về việc tranh chấp “Xin ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 15 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Kim T, sinh năm 1986.

Địa chỉ: ấp P, xã P, huyện P, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Anh Lê Hùng E, sinh năm 1985.

Địa chỉ: ấp L, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

Nguyên đơn, bị đơn đều có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06/8/2018; biên bản hòa giải đoàn tụ không thành ngày 17/9/2018 và tại phiên toà chị Đặng Thị Kim T trình bày: Chị và anh Lê Hùng E kết hôn với nhau vào năm 2005 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện P, tỉnh An Giang (theo giấy chứng nhận kết hôn số 13, quyển số 01 ngày 24/02/2012), sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống rất hạnh phúc và có sinh được 02 đứa con chung tên Đặng Thị Kim T, sinh ngày 06/6/2006 và Lê Thị Kim Đ, sinh ngày 16/01/2012, nhưng từ tháng 01/2018 cuộc sống vợ chồng không còn hòa hợp, thường xuyên cãi nhau do nhau bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Hùng E ghen tuông có hành vi bạo lực gia đình nên chị và anh Hùng E đã ly thân từ tháng 01/2018 cho đến nay. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống được với nhau.

Nay chị khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Lê Hùng E.

- Về con chung: Có hai con chung tên Đặng Thị Kim T, sinh ngày 06/6/2006 và Lê Thị Kim Đ, sinh ngày 16/01/2012, hiện nay đang sống với chị, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu anh Hùng E cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nợ ai và cũng không có ai nợ lại nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, không có yêu cầu gì khác.

Tại biên bản hòa giải đoàn tụ không thành ngày 17/9/2018 và tại phiên toà anh Lê Hùng E trình bày: Thừa nhận anh với chị Đặng Thị Kim T kết hôn với nhau vào năm 2005, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện P, tỉnh An Giang (theo giấy chứng nhận kết hôn số 13, quyển số 01 ngày 24/02/2012). Sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống rất hạnh phúc và có sinh được 02 đứa con chung tên Đặng Thị Kim T, sinh ngày 06/6/2006 và Lê Thị Kim Đ, sinh ngày 16/01/2012. Khoảng đầu tháng 01/2018 thì cuộc sống vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cự cãi nhau, nguyên nhân do chị T không quan tâm đến anh, vợ chồng đã ly từ tháng 01/2018 cho đến nay. Từ khi ly thân cho đến nay, anh và chị T có hàn gắn lại nhưng không được.

Nay chị Đặng Thị Kim T yêu cầu ly hôn, anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị T, vì còn thương vợ thương con.

- Về con chung: Có 02 con chung là Đặng Thị Kim T, sinh ngày 06/6/2006 và Lê Thị Kim Đ, sinh ngày 16/01/2012. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn anh đồng ý giao hai con chung cho chị T nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nợ ai và cũng không có ai nợ lại nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, không có yêu cầu gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Đặng Thị Kim T với anh Lê Hùng E là hoàn toàn tự nguyện và thực tế đã xảy ra, anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định, nhưng trong quá trình chung sống, vợ chồng anh, chị thường xuyên phát sinh mâu thuẫn dẫn đến anh chị ly thân từ tháng 01/2018 cho đến nay. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án có tiến hành hòa giải, động viên cho vợ chồng chị hàn gắn, chung sống lại với nhau, nhưng cả hai luôn bất đồng ý kiến, cự cải nhau và tại phiên tòa, hai bên tiếp tục mâu thuẫn, cự cãi nhau. Xét thấy, đời sống chung của anh, chị không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T đối với anh Hùng E là hoàn toàn phù hợp và đúng theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về con chung: Trong thời gian chung sống chị T và anh Hùng E có sinh được 02 con chung tên Đặng Thị Kim T, sinh ngày 06/6/2006 và Lê Thị Kim Đ, sinh ngày 16/01/2012. Tại phiên toà, chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh Hùng E cấp dưỡng nuôi con, anh Hùng E cũng thống nhất giao cháu T và cháu Đ cho chị T nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy: Từ khi chị T và anh Hùng E ly thân cho đến nay, cháu T và cháu Đ do chị T nuôi dưỡng, trong quá trình nuôi dưỡng, chị T vẫn đảm bảo cho cháu T và cháu Đ có cuộc sống ổn định, phát triển tốt. Mặc khác, tại bản khai ngày 28/8/2018, cháu T và cháu Đ cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với chị T, nghĩ nên tiếp tục giao cháu T và cháu Đ cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

Chị T không yêu cầu anh Hùng E cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.Anh Hùng E được quyền đến thăm nom và chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Trong quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa chị T và anh Hùng E đều trình bày anh, chị không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56 và Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án tuyên xử:

1/ Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đặng Thị Kim T với anh Lê Hùng E, theo giấy chứng nhận kết hôn số 13/2012, quyển số 01/2012, ngày 24/02/2012 của UBND xã P, huyện P, tỉnh An Giang.

2/ Về con chung:

Tiếp tục giao con chung của chị Đặng Thị Kim T với anh Lê Hùng E tên tên Đặng Thị Kim T, sinh ngày 06/6/2006 và Lê Thị Kim Đ, sinh ngày 16/01/2012, cho chị Đặng Thị Kim T nuôi dưỡng. Anh Lê Hùng E không cấp dưỡng nuôi con do chị Đặng Thị Kim T không yêu cầu.

Anh Lê Hùng E được quyền đến thăm nom, chăm sóc con chung, không ai có quyền ngăn cản.

3/ Về án phí:

Chị Đặng Thị Kim T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị T đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001516 ngày 27/8/2018, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Nông.

Báo cho nguyên đơn, bị đơn biết, có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án hôm nay.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưõng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 28/2018/HNGĐ-ST ngày 31/10/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:28/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Nông - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về