Bản án 319/2020/HS-ST ngày 20/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 319/2020/HS-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 8 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 321/2020/HSST ngày 29 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 310/2020/QĐXXST-HS ngày 05/8/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Trí T, sinh năm 1992 tại tỉnh Vĩnh Long; thường trú: Ấp L xã M, huyện O, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1966 và con bà Lâm Thị Tuyết M, sinh năm 1967; bị cáo có 02 chị em ruột, bị cáo là thứ 2; tiền án: Không có.

Tiền sự: Ngày 30/01/2019 Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An (nay là Thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 12 tháng, theo quyết định số 48.Ngày 30/8/2019 được miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại, theo quyết định số 216.

Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam từ ngày 23/4/2020, có mặt Người làm chứng:

1. Anh Phùng Huy T1, sinh năm 1997, vắng mặt.

2. Chị Nguyễn Thị Thúy D, sinh năm 1996, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 22/4/2020, bị cáo Nguyễn Trí T sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Vtretu có sim 0971.739.116 điện thoại cho người tên Tý (không rõ nhân thân) nhờ mua ma túy, Tý nói T “đi ra khu vực ngã ba Cây Lơn, thuộc phường Đông Hòa, Thành phố Dĩ An đưa tiền”. Sau đó T điều khiển xe mô tô biển số 61B1 - 594.65 đến gặp Tý đưa 200.000 đồng, Tý đưa cho T 01 gói ma tuý. T xóa dữ liệu cuộc gọi và tin nhắn máy điện thoại sau đó điều khiển xe đi đón bạn Nguyễn Thị Thúy D thuê phòng tại nhà nghỉ An Bình địa chỉ khu phố Tân Long, phường Tân Đông Hiệp, Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương ngủ qua đêm. Vào lúc 23 giờ 30 phút cùng ngày Công an phường Tân Đông Hiệp phối hợp với Đội quản lý hành chính Công an Thành phố Dĩ An đến kiểm tra hành chính phòng của T. Lúc này T bỏ gói ma túy vào bồn cầu để phi tang nhưng bị phát hiện.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon miếng kéo dính chứa chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vtretu, có số sim 0971.739.116; 01 xe mô tô hiệu PIAGGIO, biển số 61B1 - 594.65, số máy: M739M5024543; số khung: 3401FV123199.

Kết luận giám định số: 241/MT-PC09, ngày 29/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể giám định là ma túy, có khối lượng, trọng lượng 0,1270 gam, loại Methamphetamine.

Đối với Nguyễn Thị Thúy D không biết việc T mua ma túy cất giữ để sử dụng, D có sử dụng ma túy. Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An xử phạt hành chính 750.000 đồng.

Vật chứng đã xử lý: Xe mô tô nhãn hiệu PIAGGIO, biển số: 61B1 - 594.65 của bà Bùi Thị Quỳnh H, bà H cho T mượn xe không biết T sử dụng xe đi mua ma túy. Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho bà Hoa.

Cáo trạng số 354/CT – VKS ngày 29 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Trí T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trí T từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định, sim số điện thoại. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước điện thoại di động của bị cáo T.

Bị cáo T không tranh luận, bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết việc của mình là sai, bị cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo Nguyễn Trí T: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 22/4/2020, lời khai người chứng kiến, biên bản hỏi cung bị cáo Hiếu thể hiện ngày 22/4/2020 bị cáo T cất giữ 0,1270 gam Methamphetamine để sử dụng thì bị bắt giữ. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Như vậy, hành vi trên của bị cáo T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 354/CT-VKS ngày 29/7/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo T có nhân thân xấu thể hiện việc có tiền sự, bị cáo sử dụng ma túy trong thời gian dài.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo T phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 05 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Đối với người tên Tý không rõ nhân thân cho ma túy T. Công an Thành phố Dĩ An tách điều tra xác minh xử lý sau.

[4] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy, sim điện thoại do sử dụng liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy. Đối với điện thoại của bị cáo T còn giá trị sử dụng cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước [5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng, mức hình phạt đối với bị cáo T phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo T phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trí T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trí T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 23/4/2020.

2. Các biện pháp tư pháp:

Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư được niêm phong ghi số 241/MT-PC09 bên trong có 01 gói ma túy loại Methamphetamine khối lượng còn lại sau giám định 0,0828 gam; sim số điện thoại 0971.739.116.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Vtretu.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/7/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Bị cáo Nguyễn Trí T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 319/2020/HS-ST ngày 20/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:319/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về