Bản án 318/2019/HS-PT ngày 30/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 318/2019/HS-PT NGÀY 30/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 7 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 233/2019/TLPT-HS ngày 05 tháng 6 năm 2019 đối với các bị cáo Trần Hoài B, Lê Văn B1 do có kháng cáo của các bị cáo B và B1 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2019/HS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Hoài B (tức: Tý); Sinh ngày 01/10/1999 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 18/2 tổ G, ấp TT1, xã TH, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Minh H và bà Trần Thị T; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giữ từ ngày 13/02/2018 đến ngày 22/02/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

2. Lê Văn B1; Sinh ngày 29/01/1999 tại tỉnh An Giang; Thường trú: 136/3G tổ K, ấp TT2, xã TH, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn Phi E và bà Bùi Thị Bé H; Có vợ tên Đặng Thu T và 01 con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 13/02/2018 đến ngày 22/02/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 55 phút ngày 12/02/2018, Trần Hoài B gọi điện thoại rủ Lê Văn B1 đi trộm cắp chó bán lấy tiền chia nhau tiêu xài, B đồng ý. Đến khoảng 03 giờ 30 phút ngày 13/02/2018, B1 điều khiển xe gắn máy biển số 59Y1-991.31 chạy đến nhà B. Tại đây, B đem ra bộ dụng cụ dùng để trộm cắp chó gồm: 01 túi vải màu đen, 01 cây súng tự chế bằng gỗ, 01 mũi tên tự chế bằng gỗ có gắn 02 mũi kim loại nhọn đấu với sợi dây điện màu đỏ đen kết nối với cục biến áp điện được đấu nối vào bình ắc quy của chiếc xe 59Y1-991.31. Khoảng 04 giờ 30 phút, B điều khiển xe 59Y1-991.31 chở B1 chạy tới trước nhà số 28 Bến Than A, thuộc ấp 2A, xã Hòa Phú, huyện Củ Chi thì B1 dùng cây súng lắp mũi tên điện bắn chết 01 con chó giống cái có bộ lông màu vàng nhạt của anh Trần Hoài T, rồi nhặt con chó cất giấu vào túi vải màu đen. B tiếp tục chở B1 đi tìm chó để trộm, khoảng 30 phút sau, bằng cách thức tương tự thì B1 bắn chết lần lượt 01 con chó giống đực có bộ lông màu vàng đậm và 01 con chó giống đực có bộ lông đốm màu trắng - vàng của ông Huỳnh Tâm L tại bãi đất trống trên đường Xóm Bưng 2 thuộc ấp 2A, xã Hòa Phú, huyện Củ Chi rồi nhặt hai con chó cất giấu vào túi vải màu đen. Sau đó B1 thay B điều khiển xe 59Y1- 991.31 chở B tiếp tục đi tìm chó để trộm cắp. Đến khoảng 06 giờ 00 phút cùng ngày, B tiếp tục bắn chết 01 con chó giống cái có bộ lông màu đen và 01 con chó giống đực có bộ lông xù màu vàng của ông Phan Tấn D tại đám cỏ trên đường 222 thuộc ấp 2, xã Hòa Phú, huyện Củ Chi rồi nhặt 02 con chó cất giấu vào túi vải màu đen. Sau khi trộm cắp 05 con chó, B1 điều khiển xe 59Y1- 991.31 đi đến đường Bến Than thuộc ấp 2, xã Hòa Phú, huyện Củ Chi thì bị tổ tuần tra của Công an xã Hòa Phú phát hiện truy đuổi bắt giữ B1, B cùng tang vật.

Kết luận định giá tài sản số: 248/KL-HĐĐGTS ngày 16/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Củ Chi kết luận: 05 con chó có tổng khối lượng 63kg, có giá trị 4.095.000 đồng.

Tại Bản án số: 62/2019/HS-ST ngày 25-4-2019 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã Quyết định: Tuyên bố các bị cáo Trần Hoài B và Lê Văn B1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Trần Hoài B 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 13/02/2018 đến ngày 22/02/2018.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Lê Văn B1 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 13/02/2018 đến ngày 22/02/2018.

Ngoài ra Bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

Ngày 26/4/2019, các bị cáo Trần Hoài B và Lê Văn B1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo B, B1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do các bị cáo thực hiện, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, mức hình phạt là thỏa đáng. Do đó đề nghị không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Các bị cáo không tham gia tranh luận.

Lời nói sau cùng: Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt để sớm về với gia đình, hòa nhập cộng đồng và làm công dân tốt cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của các bị cáo Trần Hoài B, Lê Văn B1 về nội dung quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của các bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an huyện Củ Chi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thẩm phán, Thư ký Tòa án trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Căn cứ lời khai của các bị cáo B, B1 tại phiên tòa phúc thẩm, cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở xác định: Do bản thân có bộ súng bắn nỏ điện tự chế nên Trần Hoài B điện thoại rủ Lê Văn B1 đi trộm cắp chó nuôi trên địa bàn huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong khoảng thời gian từ 04 giờ 30 phút đến 06 giờ 00 phút ngày 13/02/2018, các bị cáo đã lén lút chiếm đoạt 05 con chó nuôi có tổng trọng lượng 63kg thuộc sở hữu của các ông Trần Hoài T, Huỳnh Tam L và Phan Tấn D. Tài sản chiếm đoạt qua định giá có tổng giá trị là 4.095.000 đồng. Bản án sơ thẩm số: 62/2019/HS-ST ngày 25-4-2019 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[4] Về nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Trần Hoài B, Lê Văn B1, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Khi xét xử Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo như các bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã bồi thường cho các bị hại, quá trình điều tra, truy tố, xét xử có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo Bảo có đơn xin bãi nại của các bị hại để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt. Xét thấy, mức hình phạt 01 năm 09 tháng tù đối với bị cáo B và 01 năm 06 tháng tù đối với bị cáo B1 là có phần nặng. Bởi các bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và sửa Bản án sơ thẩm giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt. Riêng bị cáo Lê Văn B1 bị Trần Hoài B rủ rê phạm tội, hiện có nơi cư trú ổn định tại ấp TT2, xã TH, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh và đang nuôi con nhỏ, xét bị cáo có khả năng tự cải tạo nên không cần bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c, e khoản 1 Điều 357của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Hoài B, Lê Văn B1 và sửa Bản án sơ thẩm.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Trần Hoài B 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 13/02/2018 đến ngày 22/02/2018.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Lê Văn B1 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 năm 06 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Lê Văn B1 cho Ủy ban nhân dân xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Đã giải thích chế định án treo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 318/2019/HS-PT ngày 30/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:318/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về