Bản án 316/2021/HNGĐ-ST ngày 06/04/2021 về tranh chấp ly hôn 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 316/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Trong ngày 06 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 1367/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 81/2021/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Hoàng Thanh Gi, sinh năm: 1992 (Có mặt);

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 24/1H Nguyễn Thị Đ, tổ 1, ấp 7, xã T, huyện C, Thành phố H.

Tạm trú: Số 61, ấp 2A, xã T, huyện C, tỉnh L.

2. Bị đơn: Ông Mã Trung Đ, sinh năm: 1971 (Vắng mặt).

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 24/1H Nguyễn Thị Đ, tổ 1, ấp 7, xã T, huyện C, Thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn nộp ngày 27/10/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là bà Lê Hoàng Thanh Gi trình bày:

Bà và chồng là ông Mã Trung Đ xây dựng gia đình năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, Thành phố H vì lúc này ông Đ có hộ khẩu tại xã T, huyện H, Thành phố H có tổ chức cưới, hai bên tự nguyện.

Sau khi xây dựng gia đình, bà và ông Đ chung sống tại nhà riêng của ông Đức ở xã T, huyện H, Thành phố H. Khoảng đầu năm 2020, vợ chồng bà chuyển về xã T, huyện C, Thành phố H sinh sống. Từ lúc cưới nhau vợ chồng bà sống hạnh phúc đến cuối năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do ông Đ không quan tâm đến gia đình, vợ con, vợ chồng sống với nhau nhưng không cùng quan điểm, không chia sẻ được, ông Đ gia trưởng, bà đã cố gắng vì con nhưng cuộc sống vợ chồng ngày càng ngột ngạt, không còn hạnh phúc. Từ tháng 11/2020 cho đến nay bà chuyển về nhà cha mẹ ruột ở huyện C, tỉnh L sinh sống cho đến nay. Bà nhận thấy giữa bà và ông Đ không còn quan tâm đến nhau, có hàn gắn cũng không có hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Đ.

Bà và ông Đ có 01 con chung chung tên Mã Lê Vĩnh Ph, sinh ngày 06/12/2017, hiện con chung đang sống cùng mẹ nên bà yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung, bà không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con, ông Đ lo cho con như thế nào bà sẽ chấp nhận như vậy.

Tài sản chung bà và ông Đ không có, nợ chung không có.

* Bị đơn là ông Mã Trung Đ vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp:

Tại đơn xin ly hôn nộp ngày 27/10/2020, bà Lê Hoàng Thanh Gi yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Củ Chi giải quyết cho bà ly hôn với ông Mã Trung Đ, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung không có, nợ chung không có. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại Khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Ông Đ đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện đang cư trú tại số 24/1H Nguyễn Thị Đ, tổ 1, ấp 7, xã T, huyện C, Thành phố H, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Củ Chi theo Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn là ông Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa (ông Đ nhận trực tiếp các văn bản tố tụng nêu trên) nhưng vẫn không đến Tòa, do đó Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành phiên Tòa vắng mặt ông Đ theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Lê Hoàng Thanh Gi và ông Mã Trung Đ tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 68, quyển số 01/2015 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, Thành phố H cấp ngày 22/9/2015, đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét trình bày của bà Gi thì sau khi xây dựng gia đình vào năm 2015, hai bên chung sống hạnh phúc tại nhà riêng của ông Đ ở huyện H, Thành phố H, sau đó chuyển về huyện C, Thành phố H sinh sống, mâu thuẫn xảy ra vào cuối năm 2016 do ông Đ gia trưởng, không quan tâm đến gia đình, từ tháng 11/2020 bà dẫn con về nhà cha mẹ ruột ở huyện C, tỉnh L sinh sống, bà nhận thấy bà và ông Đ không thể hàn gắn, tình cảm bà dành cho ông Đ không còn, hai bên không còn quan tâm gì đến nhau, mục đích hôn nhân không đạt nên bà yêu cầu được ly hôn.

Xét ông Đ không đến Tòa án theo giấy triệu tập để cung cấp lời khai, điều đó cho thấy ông Đ không có thiện chí muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng cùng với bà Gi , do đó Hội đồng xét xử chỉ xem xét các chứng cứ do bà Gi cung cấp, bà Gi và ông Đ không còn chung sống cùng chung một địa chỉ, do đó Hội đồng xét xử xét không cần thiết phải xác minh về tình trạng hôn nhân của ông bà tại địa phương theo quy định tại Điều 208 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Xét tình trạng quan hệ vợ chồng giữa bà Gi và ông Đ đã đến mức trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài được, mục đích hôn nhân không đạt, căn cứ Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Gi được ly hôn với ông Đ là có cơ sở.

[4] Về con chung:

Bà Gi và ông Đ có 01 con chung tên Mã Lê Vĩnh Ph, sinh ngày 06/12/2017, ông Đ không đến Tòa để đưa ra ý kiến về con chung, cháu Ph hiện đang sống chung với bà Gi , để ổn định tâm sinh lý của con chung, Hội đồng xét xử giao cháu Ph cho bà Gi trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Bà Gi không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con, xét đây là sự tự nguyện của bà Gi, không trái pháp luật nên ghi nhận sự tự nguyện này. Nếu sau này bà Gi có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con sẽ được Tòa án giải quyết ở một vụ án khác.

[5] Về tài sản chung: Bà Gi xác định không có.

[6] Về nghĩa vụ dân sự chung: Bà Gi xác định không có.

[7]Về nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xét buộc bà Gi phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 146, Điều 227, Điều 228, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110 và Điều 117 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Điều 6, Điều 7, Điều 26, Điều 30, Điều 31 và Điều 32 của Luật Thi hành án Dân sự năm 2008;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Cho ly hôn giữa bà Lê Hoàng Thanh Gi và ông Mã Trung Đ.

Giấy chứng nhận kết hôn số 68, quyển số 01/2015 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, Thành phố H cấp ngày 22/9/2015 cho bà Gi và ông Đ không còn giá trị pháp lý kể từ ngày Bản án phát sinh hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung:

Bà Gi và ông Đ có 01 con chung tên Mã Lê Vĩnh Ph, sinh ngày 06/12/2017. Giao cháu Ph cho bà Gi trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Gi về việc tạm thời không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi dưỡng con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, yêu cầu của cá nhân, tổ chức theo quy định tại Khoản 5 Điều 84, Khoản 2 Điều 116 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc trợ cấp cho việc nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về chia tài sản chung: Bà Gi xác định không có.

4. Về nghĩa vụ dân sự chung: Bà Gi xác định không có.

5. Về án phí sơ thẩm: Bà Gi phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số AA/2019/0085175 ngày 24/11/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Củ Chi.

Thi hành tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án Dân sự.

6. Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 316/2021/HNGĐ-ST ngày 06/04/2021 về tranh chấp ly hôn 

Số hiệu:316/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về