Bản án 315/2019/HS-ST ngày 09/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 315/2019/HS-ST NGÀY 09/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 09 tháng 07 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số : 336/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 06 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 337/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 06 năm 2019 đối với bị cáo:

Vũ Ngọc Lg, (tên gọi khác: không) sinh ngày 11/11/1981, tại Thái Nguyên. Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: tổ X, phường CH, TPTN, tỉnh TN; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; Con ông: Vũ Viết H, sinh năm 1953 và bà: Phan Thị T, sinh năm 1953; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; vợ, con: chưa; Tiền án, tiền sự: không; nhân thân: 03

- Tại Bản án số 28/HSST ngày 16/4/2004 của Tòa án nhân dân huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 15 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, đã thi hành xong án phí và tịch thu ngày 6/3/2013

- Tại Bản án số 58/2005/HSST ngày 31/10/2005 của Tòa án nhân dân huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 42 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, thi hành xong tiền án phí ngày 1/12/2006

- Tại Bản án số 78/2013/HSST ngày 20/3/2013 của Tòa án nhân dân TPTN, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 42 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”, thi hành xong án phí ngày 01/8/2013

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/4/2019 đến nay hiện tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

*Bị hại: Ông Lý Ký N, sinh năm 1950 (có đơn xin xử vắng mặt)

Trú tại: tổ X, phường CH, TPTN, tỉnh TN.

*Người chứng kiến: Ông Nguyễn Hồng S (vắng mặt)

Trú tại: tổ Y, phường CH, TPTN, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 02/4/2019 Vũ Ngọc Lg đi bộ từ nhà đến nhà ông Lý Ký N, sinh năm 1950, trú tại tổ X, phường CH, TPTN, tỉnh TN thấy cổng nhà ông N đang hé mở, nhìn vào bên trong thấy cửa nhà đóng, ở cây nhãn nhà ông N có nhiều cây Phong Lan loại “Phi Điệp” được cấy ghép trên thân cây nhãn cách mặt đất khoảng 1,2m. Lg quan sát xung quanh thấy không có người qua lại nên đã mở cửa đi thẳng vào vị trí cây nhãn trong sân nhà ông N, dùng hai tay giật 01 khóm cây Phong Lan trên thân cây nhãn sau đó nhanh chóng đi ra khỏi cổng. Ông N ở trong nhà nghe tiếng động bên ngoài nên mở cửa ra nhìn thấy Lg đang ôm cây Phong Lan của mình đi ra cổng, ông N đuổi theo và hô hoán nhưng Lg vẫn ôm khóm phong lan vừa trộm cắp được bỏ chạy. Sau khi lấy được khóm phong lan Lg mang đến đường tròn Chùa Hang bán cho một nam thanh niên không biết tên tuổi, địa chỉ với giá 700.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết. Ông Lý Ký N đã trình báo công an phường Chùa Hang về việc Lg trộm cắp khóm Phong Lan của mình và đề nghị cơ quan công an giải quyết.

Tại bản Kết luận về định giá tài sản số 95/HĐĐGTS ngày 21/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên kết luận: 01 (một) khóm cây phong lan, có 15 nhánh, mỗi nhánh dài trung bình 100cm, loại lan phi điệp tím, thân tròn, lá màu xanh, có rễ giá trị là 10.000.000 đồng.

Bản cáo trạng số 337/CT-VKSTPTN ngày 12 tháng 06 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Vũ Ngọc Lg về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Ngọc Lg phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Ngọc Lg từ 24 đến 30 tháng tù, Trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 589 Bộ luật dân sự buộc bị cáo bồi thường cho ông Lý Ký N số tiền 10.000.000đ, miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo; Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo chịu án phí theo quy định pháp luật.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại lời nói sau cùng bị cáo mong hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

1.1 Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, bị hại và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

1.2 Tại phiên tòa bị hại ông Lý Ký N vắng mặt tuy nhiên Tòa án đã tống đạt hợp lệ giấy triệu tập cho bị hại đồng thời ông N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị hại.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Ngọc Lg tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như Đơn trình báo; Biên bản tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, biên bản sự việc; Lời khai của đại diện nguyên đơn dân sự và phù hợp với Kết luận định giá tài sản, Biên bản khám nghiệm hiện trường. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 02/4/2019 Vũ Ngọc Lg đi đến cổng nhà ông Lý Ký N, trú tại tổ Y, phường CH, TPTN thấy cổng không khóa, quan sát xung quanh không có ai nên đã vào sân, dùng tay lấy trộm 01 khóm gồm 15 nhánh cây phong lan loại lan “Phi Điệp”, khi đi ra đến cổng bị ông N phát hiện, hô yêu cầu trả lại thì Lg bỏ chạy và mang đi bán lấy tiền tiêu xài cá nhân hết. Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thái Nguyên xác định giá trị tài sản của khóm lan Lg trộm cắp là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

[3] Với hành vi lén lút, lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu để trộm cắp tài sản trị giá là 10.000.000 đồng hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015

[4] Xét tính chất, mức độ, hành vi: Tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo xâm phạm tài sản công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an địa phương và xã hội vì vậy cần phải được xử lý bằng pháp luật hình sự.

[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015. Xét bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma túy, đã bị xét xử nhiều lần về hành vi chiếm đoạt tài sản tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học, mà tiếp tục lao vào con đường phạm tội, do đó cần phải xét xử nghiêm khắc buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

[6] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng" do đó bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung bằng hình phạt tiền. Tuy nhiên xét bị cáo là đối tượng nghiện, không có nghề nghiệp ổn định, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung, do đó Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Trách nhiệm dân sự: Đối với tài sản trộm cắp của ông Lý Ký N, đến nay không thu hồi được, ông N yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị tài sản theo định giá của cơ quan định giá, do đó cần buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường ông Lý Ký N trị giá khóm phong lan là 10.000.000 đồng

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[10] Về người mua khóm phong lan là tài sản bị cáo trộm cắp, do bị cáo xác định bán cho người không biết tên, lai lịch địa chỉ do đó không có căn cứ để xem xét xử lý theo quy định.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về phần trách nhiệm dân sự tại phiên tòa xét thấy là phù hợp được chấp nhận tuy nhiên về phần hình sự có phần nghiêm khắc.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Ngọc Lg phạm tội "Trộm cắp tài sản"

[2] Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Vũ Ngọc Lg 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/4/2019.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, Quyết định tạm giam bị cáo Vũ Ngọc Lg 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[3] Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 357, Điều 468, Điều 584, Điều 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Vũ Ngọc Lg phải bồi thường cho ông Lý Ký N số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng chẵn).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại các Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

[5] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Vũ Ngọc Lg phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước.

[6] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Vũ Ngọc Lg có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại Lý Ký N có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 315/2019/HS-ST ngày 09/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:315/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về