Bản án 314/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 314/2019/HS-ST NGÀY 04/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 309/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 329/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Tăng Trung M, sinh năm 1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Số 17/14 đường số T, khu phố M, phường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Cao Văn Ú, sinh năm 1966 và bà Tăng Thị Xuân L, sinh năm 1967; bị cáo có vợ tên là Nguyễn Thị Hồng A, sinh năm 1988, có 02 ruột, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2013; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 11/5/2017, bị Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 147/2017/HSST, chấp hành xong hình phạt ngày 23/11/2017; bị bắt tạm giam từ ngày 21/5/2019 cho đến nay; có mặt.

- Bị hại: Ông Nguyễn Hoàng Vinh L, sinh năm 1994 và ông Nguyễn Hoàng Vinh Ph, sinh năm 1992; cùng thường trú: Số 2/7 khu phố Tây B, phường Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1977; thường trú: Số MNC đường số C, Phường C, quận G V, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

2. Ông Trần An Ph, sinh năm 1983; thường trú: Số 942/2 đường Kh V C, khu phố M, phường Tr Th, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tăng Trung M là người không có nghề nghiệp ổn định, sống cùng gia đình tại địa chỉ số 17/14 đường số T, khu phố M, phường L X, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 18 giờ 15 phút ngày 20/05/2019, M điều khiển xe mô tô kiểu dáng Suzuki Sport, biển số: 59V1-837.84 đến tiệm điện cơ “V L” tại địa chỉ số 2/7 khu phố Tây B, phường Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương (do anh Nguyễn Hoàng Vinh L làm chủ) để thuê máy cắt về sửa nhà. Khi đến tiệm thì M nhìn thấy cửa cuốn của tiệm đang mở hé, M gọi chủ tiệm nhưng không có ai trả lời nên M dùng tay mở cửa cuốn lên thì không thấy ai trong tiệm. Lúc này, M đi vào trong tiệm lấy trộm 01 điện thoại di động hiệu Asus Zenphone 4 của Nguyễn Hoàng Vinh L đang để trên ghế sofa bỏ vào túi quần sau bên phải, M tiếp tục lấy trộm 02 máy hàn điện tử nhãn hiệu Jasic mang ra ngoài tẩu thoát. Sau đó M điều khiển xe môtô biển số: 59V1-837.84 chở 02 máy hàn đi tìm nơi tiêu thụ. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, M đi đến trước sân vận động thị xã D A thuộc khu phố Đông B, phường Đ H, thị xã D A thì gặp 01 người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch ) hỏi mua 02 máy hàn điện tử trên với giá 1.400.000 đồng, M đồng ý bán và lấy tiền tiêu xài cá nhân hết 700.000 đồng. Riêng chiếc điện thoại hiệu Asus Zenphone 4 M để lại sử dụng. Đến khoảng 10 giờ 45 ngày 21/05/2019, Tăng Trung M đến Công an phường Đ H đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đồng thời giao nộp điện thoại di động hiệu Asus Zenphone 4 và 700.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) điện thoại di động hiệu Asus – Zenphone 4, màu trắng – hồng, 01 (một) xe mô tô Suzuki Sport, biển số: 59V1-837.84, số khung: Y- A48463, số máy: F124-148463, 01 (một) Giấy Chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy hiệu SUZUKI, loại RGV120 (kiểu dáng Suzuki Sport), biển số: 59V1-837.84, số khung: Y-A48463, số máy: F124-148463 mang tên Nguyễn Thị Nguyệt, địa chỉ: Số 159 đường số 9, Phường 9, quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh) và 700.000 đồng.

Căn cứ Kết luận định giá số: 125/BB.ĐG ngày 29/05/2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Dĩ An kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu Asus – Zenphone 4, màu trắng – hồng, trị giá: 1.000.000 đồng và 02 (hai) máy hàn hiệu Jasic, màu cam, trị giá: 8.600.000 đồng.

Theo Kết luận giám định số: 284/GĐ-PC09 ngày 07/08/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Phôi giấy “Chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy” số: 082846 là phôi thật; chử ký mang tên “Lê Đình Ph” trên tài liệu giám định (ký hiệu A) so với chữ ký đứng tên Lê Đình Phong trên tài liệu mẫu (ký hiệu M1 và M2) do cùng một người ký ra; hình dấu tròn có nội dung “*CÔNG AN TO. HỒ CHÍ MINH * CÔNG AN Q.GÒ VẤP” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A) so với hình dấu tròn có cùng nội dung trên tài liệu mẫu (ký hiệu M1) do cùng một con dấu đóng ra.

Theo Kết luận giám định số: 423/SKSM-PC09 ngày 02/08/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương về xe mô tô Suzuki Sport, biển số: 59V1-837.84 như sau: số khung dưới yên xe: PMSRU120U0YA48463 là số đóng mới; số khung đóng trên cổ xe: BF12B-TH101889 là số nguyên thủy và Số máy: F124-148463 là số đóng mới.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và các bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận định giá tài sản số: 125/BB.ĐG ngày 29/05/2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Dĩ An và các Kết luận giám định số: 284/GĐ-PC09 ngày 07/08/2019, Kết luận giám định số: 423/SKSM-PC09 ngày 02/08/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương Qua xác minh biển số xe 59V1-837.84 tại Công an quận G V, Thành phố Hồ Chí Minh xác định biển số trên là của xe môtô nhãn hiệu Honda, số loại WAVE S, số khung RLHHC12039Y038463, số máy HC12E1567524 cấp cho bà Nguyễn Thị Ng, địa chỉ: Số MNC, đường số C, Phường C, quận G V, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Cáo trạng số: 327/CT-VKS-DA ngày 10 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Tăng Trung M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Tăng Trung M về tội “Trộm cắp tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Tăng Trung M từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

* Về trách nhiệm dân sự:

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Asus Zenphone 4 đã trả lại cho bị hại Nguyễn Hoàng Vinh Ph, bị hại Phúc không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

+ Đối với 02 (hai) máy hàn hiệu Jasic không thu hồi được, giá trị tài sản theo kết quả định giá là 8.600.000 đồng, đã thu hồi trả lại cho bị hại Nguyễn Hoàng Vinh L 700.000 đồng, đồng thời bị hại Lộc tiếp tục yêu cầu bị cáo Tăng Trung M bồi thường số tiền 7.900.000 đồng nên buộc bị cáo M bồi thường cho bị hại số tiền trên.

* Về xử lý vật chứng:

+ Đối với số tiền 700.000 đồng thu giữ của bị cáo Tăng Trung M là tiền bán 02 chiếc máy hàn điện từ do M trộm được nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã trả lại cho bị hại Nguyễn Hoàng Vinh L.

+ Đối với 01 (một) xe Suzuki Sport, biển số: 59V1-837.84 là xe của ông Trần An Ph, sinh năm: 1983, thường trú: Số 942/2 khu phố M, phường Tr Th, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh mua lại của người tên Nguyễn Tiến Tr (chưa rõ nhân thân, lai lịch) vào tháng 4/2019 với giá 32.000.000 đồng. Giữa tháng 5/2019 ông Ph cho bị cáo Tăng Trung M mượn xe Suzuki Sport, biển số: 59V1-837.84 để đi lại, việc bị cáo M dùng xe làm phương tiện phạm tội ông Ph không biết nên Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An không đề nghị xử lý. Đồng thời đối với xe mô tô Suzuki Sport, biển số: 59V1-837.84 là phương tiện phạm tội, không rõ nguồn gốc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu theo quy định nhưng đến nay vẫn chưa có ai đến nhận nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

+ Đối với 01 (một) Giấy Chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy hiệu SUZUKI, loại RGV120 (kiểu dáng Suzuki Sport), biển số: 59V1-837.84, số khung: Y-A48463, số máy: F124-148463 mang tên Nguyễn Thị Ng, qua quá trình điều tra xác định là giả nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 20/5/2019, tại tiệm điện cơ “V L” tại địa chỉ số 2/7 khu phố T B, phường Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, lợi dụng sơ hở, thiếu cảnh giác của các bị hại Nguyễn Hoàng Vinh L và Nguyễn Hoàng Vinh Ph, bị cáo Tăng Trung M đã lén lút chiếm đoạt 01 (một) điện thoại di động hiệu Asus – Zenphone 4, màu trắng – hồng, 02 (hai) máy hàn hiệu Jasic, màu cam, tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt 9.600.000 đồng.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Tăng Trung M đã lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại, có tổng trị giá 9.600.000 đồng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 327/CT-VKS-DA ngày 10 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Tăng Trung M về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức bị cáo hoàn toàn biết hành vi trộm cắp tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vì lòng tham, muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động để phục vụ nhu cầu bản thân mà bị cáo cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội mới do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người không biết chữ. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo có tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội đồng thời bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định. Tuy nhiên, hiện nay bị cáo đang nuôi 02 con nhỏ nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nhưng xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo muốn kiếm tiền nhanh chóng để phục vụ nhu cầu của bản thân mà bị cáo cố tình chiếm đoạt tài sản của bị hại đồng thời bị cáo là người có tiền án về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa tích nhưng cố tình thực hiện hành vi phạm tội, chứng tỏ bị cáo là người xem thường pháp luật. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự:

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Asus Zenphone 4 đã trả lại cho bị hại Nguyễn Hoàng Vinh Ph, bị hại Ph không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

+ Đối với 02 (hai) máy hàn hiệu Jasic không thu hồi được, giá trị tài sản theo kết quả định giá là 8.600.000 đồng, đã thu hồi trả lại cho bị hại Nguyễn Hoàng Vinh L 700.000 đồng, đồng thời bị hại L tiếp tục yêu cầu bị cáo Tăng Trung M bồi thường số tiền còn lại 7.900.000 đồng là có cơ sở chấp nhận. [10] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với số tiền 700.000 đồng thu giữ của bị cáo Tăng Trung M là tiền bán 02 chiếc máy hàn điện tử do M trộm được nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A đã trả lại cho bị hại L là đúng theo quy định của pháp luật.

+ Đối với 01 (một) xe Suzuki Sport, biển số: 59V1-837.84 là xe của ông Trần An Ph, sinh năm: 1983, thường trú: Số 942/2 khu phố M, phường Tr Th, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh mua lại của người tên Nguyễn Tiến Tr (chưa rõ nhân thân, lai lịch) vào tháng 4/2019 với giá 32.000.000 đồng. Giữa tháng 5/2019 ông Ph cho bị cáo Tăng Trung M mượn xe Suzuki Sport, biển số: 59V1-837.84 để đi lại, việc bị cáo M dùng xe làm phương tiện phạm tội ông Ph không biết nên Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A không đề nghị xử lý. Đồng thời đối với xe mô tô Suzuki Sport, biển số: 59V1-837.84 là phương tiện phạm tội, không rõ nguồn gốc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu theo quy định nhưng đến nay vẫn chưa có ai đến nhận nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

+ Đối với 01 (một) Giấy Chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy hiệu SUZUKI, loại RGV120 (kiểu dáng Suzuki Sport), biển số: 59V1-837.84, số khung:Y-A48463, số máy: F124-148463 mang tên Nguyễn Thị Ng, qua quá trình điều tra xác định là giả nên cần tịch thu tiêu hủy.

[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Tăng Trung M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Tăng Trung M 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính ngày 21/5/2019.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các Điều 468, Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Tăng Trung M bồi thường cho bị hại ông Nguyễn Hoàng Vinh L 7.900.000 (bảy triệu chín trăm nghìn) đồng.

Kể từ ngày người được yêu cầu thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thi hành án thì phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) xe Suzuki Sport, biển số: 59V1-837.84, số khung: Y-A48463, số máy: F124-148463.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) Giấy Chứng nhận đăng ký xe môtô, xe máy hiệu SUZUKI, loại RGV120 (kiểu dáng Suzuki Sport), biển số: 59V1-837.84, số khung: Y- A48463, số máy: F124-148463 mang tên Nguyễn Thị Ng, địa chỉ: Số MNC, đường số C, Phường C, quận G V, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/9/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự Dĩ An, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Tăng Trung M phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 395.000 (ba trăm chín mươi lăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 314/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:314/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về