Bản án 31/2021/HNGĐ-ST ngày 23/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 31/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

 Ngày 23 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 587/2020/TLST - HNGĐ, ngày 23 tháng 12 năm 2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2021. Giữa:

1.Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N, sinh năm: 1975; địa chỉ: ấp Thạnh Xuân, xã Thạnh Hưng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Lê Minh T, sinh năm: 1972; địa chỉ: ấp Thạnh Xuân, xã Thạnh Hưng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 01/12/2020 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Chị Nguyễn Thị N trình bày:

Chị và Anh Lê Minh T tự tìm hiểu quen biết nhau, được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới vào năm 1996, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Thạnh Hưng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 02 năm 2020 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp tánh tình, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn với nhau. Anh T thường xuyên đi ra ngoài nhậu nhẹt và có mối quan hệ bất chính với người khác, chị và Anh T đã sống ly thân từ đó cho đến nay.

Trong quá trình chung sống chị và Anh T có hai con chung là Lê Kiều Trang, sinh ngày: 16/7/1996 (đã trưởng thành) và Lê Minh Trọng, sinh ngày: 25/12/2004.

Về tài sản, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nay chị N khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với anh Tùng Về con chung: Chị N yêu cầu được quyền nuôi dưỡng cháu Lê Minh Trọng, sinh ngày: 25/12/2004, không yêu cầu Anh T phải cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Lê Kiều Trang, sinh ngày: 16/7/1996 hiện đã trưởng thành, chị không có yêu cầu.

Về tài sản, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 30/12/2020, biên bản hòa giải ngày 12/01/2021 và quá trình giải quyết vụ án bị đơn Anh Lê Minh T xác định lời trình bày của vợ tôi Nguyễn Thị Nương về hôn nhân, con chung, tài sản và nợ chung là đúng.

Anh T thừa nhận khi chung sống anh và chị N cũng có xảy ra mâu thuẫn, Anh T thừa nhận anh hay ra ngoài nhậu nhẹt nhưng do chị N không cho anh tổ chức nhậu ở nhà nên anh mới đi ra ngoài. Còn việc chị N cho rằng anh có mối quan hệ bất chính với người khác ở bên ngoài là không đúng.

Nay chị N khởi kiện yêu cầu được ly hôn thì anh không đồng ý, anh yêu cầu anh và chị N thỏa thuận xong về tài sản, nợ chung thì anh mới đồng ý ly hôn với chị N ương Nếu chị N cương quyết xin ly hôn thì Anh T yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết:

Về con chung: Anh T đồng ý cháu Lê Minh Trọng, sinh ngày: 25/12/2004 cho chị N nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với Anh T nên quan hệ tranh chấp của vụ án là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - xin ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Anh T với tư cách là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Chị N có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 26/02/2021, Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị N và Anh T theo quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét về hôn nhân: Chị N và Anh T chung sống với nhau vào năm 1996, trên cơ sở hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã Thạnh Hưng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Do vậy việc kết hôn của anh, chị đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, quan hệ hôn nhân của anh, chị là hợp pháp. Do đó khi có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng luật Hôn nhân gia đình năm 2014 để giải quyết.

Xét về mâu thuẫn giữa chị N và anh Tùng, lúc đầu chỉ là mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống mà các cặp vợ chồng thường mắc phải nhưng anh, chị không tìm hiểu nguyên nhân từ đâu để khắc phục, tháo gỡ mà để cho mâu thuẫn kéo dài ngày càng trầm trọng, dẫn đến chị N khởi kiện yêu cầu xin được ly hôn với anh Tùng. Từ khi thụ lý vụ kiện Tòa án tiến hành mời hai bên hòa giải động viên anh, chị bỏ qua những mâu thuẫn nhỏ để tiếp tục đoàn tụ chung sống với nhau nhưng chị N cương quyết xin ly hôn vì chị cho rằng giữa chị và Anh T không còn phù hợp tánh tình, Anh T thường xuyên đi nhậu nhẹt không thay đổi bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy quá trình chung sống giữa anh, chị đã xảy ra nhiều mâu thuẫn kéo dài mà không thể tự hòa giải với nhau, đồng thời anh, chị cũng đã nhiều lần khắc phục mâu thuẫn hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Nay chị N cương quyết xin ly hôn chứ không đồng ý chung sống với Anh T nữa. Từ những cơ sở nhận định và phân tích trên cho thấy mâu thuẫn giữa chị N và Anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nếu tiếp tục chung sống sẽ không có hạnh phúc. Do đó, chị N yêu cầu được ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần được chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Chị N và Anh T xác định anh, chị hai con chung là Lê Kiều Trang, sinh ngày: 16/7/1996 (đã trưởng thành) và Lê Minh Trọng, sinh ngày:25/12/2004. Trong quá trình giải quyết vụ án chị N ương, Anh T đều thống nhất giao cháu Trọng cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng, chị N không yêu cầu Anh T không cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Trang hiện đã trưởng thành anh, chị không có yêu cầu.

Xét thấy hiện nay dưới sự chăm sóc, giáo dục của chị N ương, cháu Trọng đang sinh sống ổn định và phát triển bình thường. chị N cũng có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Mặc khác tại bản tự khai ngày 12/01/2021 cháu Trọng có nguyện vọng tiếp tục chung sống với chị N và không yêu cầu Anh T phải cấp dưỡng cho cháu. Xét thấy sự tự nguyện thỏa thuận của chị N ương, Anh T và nguyện vọng của cháu Trọng là phù hợp với quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình nên được Tòa án ghi nhận. Anh T có quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, dạy dỗ con chung không ai có quyền cản trở. Chị N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét.

[2.3] Về tài sản và nợ chung: Chị Nương, Anh T xác định vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a, khoản 5 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Án phí ly hôn sơ thẩm chị N phải nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị N đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0005796 ngày 23 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 56, Điều 58, khoản 2 Điều 81, Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho Chị Nguyễn Thị N được ly hôn với Anh Lê Minh T.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Lê Minh Trọng, sinh ngày:

25/12/2004 cho Chị Nguyễn Thị N tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành (trừ trường hợp thay đổi quyền nuôi con theo quy định của pháp luật). Anh Lê Minh T có quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, dạy dỗ con chung không ai có quyền cản trở 3. Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị N không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

4. Về tài sản và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí: Án phí ly hôn sơ thẩm Chị Nguyễn Thị N phải nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị N đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0005796 ngày 23 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2021/HNGĐ-ST ngày 23/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:31/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về