Bản án 31/2021/HNGĐ-ST ngày 12/03/2021 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 31/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/03/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 12 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 622/2020/TLST-HN ngày 25 tháng 12 năm 2020 về việc “tranh chấp xin ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2021 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Anh Trần Hữu Tr, sinh năm 1978 Địa chỉ: ấp MĐ, xã LĐĐA, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

2/. Bị đơn: Chị Trần Thu L, sinh năm 1983 Địa chỉ: ấp MĐ, xã LĐĐA, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(Anh Tr có đơn xin vắng mặt, chị L vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 17/12/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Trần Hữu Tr trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: anh và chị Trần Thu L cưới nhau vào khoảng năm 2002, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Mỹ, huyện Hòa Bình và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo anh Tr xác định: thời gian đầu chung sống với nhau thì vợ chồng anh chị sống hạnh phúc, nhưng thời gian gần đây thì vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc. Vợ chồng anh chị đã ly thân khoảng hơn 02 năm qua. Nay nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, vợ chồng cũng không thể hàn gắn lại được và anh cũng không còn tình cảm với vợ anh, nên anh Tr yêu cầu xin được ly hôn với vợ anh là chị Trần Thu L.

Về quan hệ con chung: Vợ chồng anh chị có hai người con chung tên Trần Như N, sinh ngày 22/10/2003 và Trần Như Q, sinh ngày 19/02/2008. Hiện cả hai con đang sống cùng với vợ anh. Khi ly hôn đồng ý giao cả hai người con cho vợ anh được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con vợ chồng anh chị thống nhất thỏa thuận không yêu cầu.

Về tài sản chung và nợ chung: anh Tr xác định khi ly hôn anh không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đối với chị Trần Thu L: Mặc dù chị L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng chị L vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với chị L theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn chị Trần Thu L chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: giữa anh Tr và chị L kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, hiện tại anh Tr xác định chị không còn tình cảm với chị L. Điều này chứng tỏ như vậy cuộc sống vợ chồng của anh Tr và chị L nếu tiếp tục kéo dài thì cũng không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh Tr được ly hôn với chị L là phù hợp với quy định của pháp luật;

Về con chung: Từ lúc anh Tr và chị L ly thân với nhau thì hai người con tên Trần Như N, sinh ngày 22/10/2003 và Trần Như Q, sinh ngày 19/02/2008 là do chị L trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị L vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao cả hai người con tên Trần Như N, sinh ngày 22/10/2003 và Trần Như Q, sinh ngày 19/02/2008 cho chị L được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp.

Anh Tr có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở. Chị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị không đặt ra xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Khi ly hôn anh Tr và chị L không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí thì anh Tr phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: anh Tr có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với chị L. Chị L có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Anh Tr có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Tr.

Chị L đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng chị L vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị L.

[2] Về nội dung vụ án: giữa anh Tr và chị L kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân xã VMA, huyện HB vào ngày 24/07/2009 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của anh Tr đối với chị L thì Hội đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống anh Tr và chị L lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mẫu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Anh chị cũng đã ly thân khoảng 02 năm qua. Trong thời gian qua cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Quá trình tố tụng anh Tr cũng xác định hiện tại anh không còn tình cảm gì với chị L, nếu vợ chồng quay về với nhau thì cuộc sống chung cũng không còn hạnh phúc.

Hội đồng xét xử xét thấy tình cảm của vợ chồng phải được xuất phát từ hai phía, nhưng phía anh Tr xác định hiện tại anh đã không còn tình cảm gì với chị L, như vậy chứng tỏ cuộc sống vợ chồng của anh Tr và chị L là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Tr đối với chị L là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về nuôi con chung: Từ lúc anh Tr và chị L ly thân với nhau thì hai người con Trần Như N, sinh ngày 22/10/2003 và Trần Như Q, sinh ngày 19/02/2008 là do chị L trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị L vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này. Do đó Hội đồng xét xử xem xét giao cả hai người con tên Trần Như N, sinh ngày 22/10/2003 và Trần Như Q, sinh ngày 19/02/2008 cho chị L được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp.

Về mức cấp dưỡng nuôi con do chị L không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Anh Tr có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: anh Tr và chị L không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Hữu Tr;

Xử cho anh Trần Hữu Tr được ly hôn với chị Trần Thu L.

2/.Về nuôi con chung: Giao cả hai người con tên Trần Như N, sinh ngày 22/10/2003 và Trần Như Q, sinh ngày 19/02/2008 cho chị Trần Thu L được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục.

Anh Trần Hữu Tr có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.

Về mức cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết. Tạm thời miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Trần Hữu Tr.

3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về án phí hôn nhân và gia đình: anh Trần Hữu Tr phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008231 ngày 25 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho anh Trần Hữu Tr và chị Trần Thu L biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2021/HNGĐ-ST ngày 12/03/2021 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:31/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về