Bản án 31/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THUỶ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 31/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 24/9/2020, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện Lệ Thuỷ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 153/2020/TLS-HNGĐ ngày 14/8/2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2020/QĐST-HNGĐ ngày 10/9/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn 3, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước. Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Dương Hữu P, sinh năm 1987 Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện về việc ly hôn đề ngày 28/7/2020, được bổ sung tại bản tự khai và đơn yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Về tình cảm: Chị và anh Dương Hữu P kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L theo Giấy chứng nhận kết hôn số 73 ngày 17/12/2018 của UBND xã T, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Quá trình chung sống, vợ chồng sống không hạnh phúc, xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tôn trọng nhau nên cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng, không ai chịu nhường nhịn ai. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6/2019 đến nay mà không ai quan tâm đến ai. Chị H thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục sống chung với anh P, yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Dương Hữu P.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Dương Minh P, sinh ngày 24/6/2019 hiện nay đang do chị H nuôi dưỡng. Chị H có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh P đóng góp tiền nuôi con vì chị có đủ khả năng và điều kiện nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị H khai không có tài sản chung và không có nợ chung.

Tại bản tự khai và tại phiên tòa, bị đơn anh Dương Hữu P trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị H kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện L, tỉnh Quảng Bình ngày 17/12/2018. Quá trình chung sống vợ chồng không có mâu thuẩn gì lớn, anh là lái xe khách đường dài nên thời gian chung sống với vợ không được nhiều. Chị H còn trẻ nên suy nghĩ chưa chính chắn, khoảng tháng 12/2019, anh có rủ chị H về quê nội ăn tết nhưng chị H không đồng ý, vợ chồng có cải nhau, anh về quê ăn tết và vợ chồng không gặp nhau từ đó cho đến nay. Anh P không đồng ý ly hôn với chị H vì tình cảm vợ chồng đang còn và con chung đang còn nhỏ, nếu ly hôn sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống mọi mặt của con, đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên là Dương Minh P, sinh ngày 24/6/2019 hiện nay đang do chị H nuôi dưỡng. Anh P không đồng ý ly hôn nên không yêu cầu giải quyết về con cái. Nếu chị H kiên quyết ly hôn thì anh P có nguyện vọng giao con cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh P tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng) nhưng chị H phải tạo điều kiện cho anh được gặp con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị H có đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt nên vụ án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Do nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn chị Nguyễn Thị H theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Dương Hữu P kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền, nên đây là một cuộc hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn lẽ ra anh, chị phải thương yêu, quan tâm và chăm sóc lẫn nhau nhằm xây dựng một gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên, hai bên thiếu sự thông cảm, chia sẻ trong cuộc sống vợ chồng và thiếu quan tâm lẫn nhau. Tòa án đã tổ chức nhiều phiên hòa giải nhưng chị H đều vắng mặt, thể hiện chị H không còn quan tâm đến mối quan hệ vợ chồng với anh P. Anh P mong muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng thời gian vợ chồng sống ly thân đã lâu, từ khi chị H nộp đơn ly hôn đến nay anh P không liên lạc, gặp gỡ được chị H; hiện tại anh P không biết chị H và con chung của anh chị đang sinh sống ở đâu. Xét mục đích hôn nhân giữa chị H và anh P không đạt được, yêu cầu xin ly hôn của chị H là chính đáng. Vì vậy, Hội đồng xét xử thống nhất cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Dương Hữu P là phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung Dương Minh P, sinh ngày 24/6/2019 và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Tại phiên tòa, anh Phú có nguyện vọng giao con chung cho chị H nuôi dưỡng và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng). Mặc dù chị H không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con nhưng để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu P, Hội đồng xét xử chấp nhận nguyện vọng cấp dưỡng nuôi con của anh P; giao cháu Dương Minh P cho chị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, anh P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng chị H mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng), thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 10/2020 cho đến khi cháu P tròn 18 tuổi là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H, anh P đều trình bày không có nợ chung, không có tài sản chung, Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự:

điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình, xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Dương Hữu P.

2/ Về quan hệ con cái: Giao cho chị Nguyễn Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Dương Minh P, sinh ngày 24/6/2019; anh Dương Hữu P có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng chị H mỗi tháng 1.000.000đ (Một triệu đồng), thời gian cấp dưỡng kể từ tháng 10/2020 cho đến khi cháu P tròn 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3/ Về án phí dân sự: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, anh Dương Hữu P phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ. Tiền án phí chị Nguyễn Thị H phải nộp được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí số AA/2017/0006135 ngày 14 tháng 8 năm 2020 (chị H đã nộp đủ án phí).

4/ Về quyền kháng cáo: Anh Dương Hữu P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (24/9/2020); chị Nguyễn Thị H vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:31/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về