Bản án 31/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

1/ Bị cáo thứ nhất:

Họ và tên: Nguyễn Đình T, tên gọi khác: T ỉa; sinh năm: 1998, tại Cà Mau; nơi cư trú: Số 22A/25, đường NT, khóm M1, phường Ch, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Danh Thị Ng; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 26/02/2016 tại bản án số 20/2016/HSST, Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt Nguyễn Đình T 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 21/6/2016 tại bản án số 77/2016/HSST, Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt Nguyễn Đình T 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Hình phạt chung của hai bản án bị cáo phải chấp hành là 02 năm 03 tháng tù. T đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 26/4/2018, chưa thi hành tiền án phí hình sự sơ thẩm của bản án số 77/2016/HSST. Bị cáo tại ngoại.

2/ Bị cáo thứ hai:

Họ và tên: Nguyễn Trọng Ng, tên gọi khác: Tý đầu bự; sinh năm: 1998, tại Cà Mau; nơi cư trú: Khóm B, phường M1, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị Cẩm T; vợ, con: Chưa có; tiền án: Không, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại.

Bị hại: Anh Dương Thanh H1, sinh năm: 1989.

Đa chỉ cư trú: Số 31, L, khóm B, phường M, Tp. Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

(Các bị cáo có mặt, anh H1 vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 00 giờ ngày 21/9/2018, Nguyễn Trọng Ng cùng với Nguyễn Đình T, Trần Văn N và Trần Công M đi bộ trên đường L, phường M, thành phố Cà Mau. Đến khu vực thuộc khóm B1, phường M, thành phố Cà Mau, thấy nhà số 31 khoá cửa ngoài nên cả nhóm bàn bạc nhau vào nhà tìm tài sản lấy trộm, bán lấy tiền tiêu xài. Sau khi bàn bạc, cả nhóm thống nhất T và M vào nhà, Ng và N đứng ngoài canh đường. T và M dùng tay kéo, dùng chân đạp cửa nhà số 31 để cả hai vào nhà. T dùng hột quẹt gas có chức năng đèn pin chiếu sáng và cùng M lấy trộm tài sản gồm: Tiền việt Nam 120.000đ; 01 Laptop hiệu Dell, màu đỏ đen; 01 chuột máy tính hiệu Logitech; 01 cặp xách tay đựng máy tính. Lấy xong, cả hai đến chỗ Ng và N cùng mở ra xem, sau đó giao cho N cất giữ.

Đến khoảng 01 giờ cùng ngày 21/9/2018, anh Dương Thanh H1 (là chủ sở hữu của các tài sản bị lấy trộm) đến Công an phường M, thành phố Cà Mau trình báo sự việc.

Sau khi nhận được tin báo, Công an phường M thành phố Cà Mau mời T làm việc. T biết việc trộm cắp tài sản bị phát hiện nên yêu cầu N giao trả lại tài sản lấy trộm, nộp cho Cơ quan điều tra.

Ngày 04/10/2018 anh Dương Thanh H1 đã nhận lại tài sản bị lấy trộm gồm: 01 Laptop hiệu Dell, màu đỏ đen; 01 chuột máy tính hiệu Logitech; 01 cặp xách tay đựng máy tính.

Tại kết luận định giá tài sản số: 162/KL-HĐĐG ngày 11/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Tính vào thời điểm tháng 9/2018, tổng giá trị tài sản bị lấy trộm là 4.640.000đ. Cụ thể:

- 01 (một) máy tính xách tay hiệu Dell, màu đỏ đen, dung lượng ổ cứng 500GB, Ram 08GB, giá trị còn lại 30% (trong thời gian sử dụng có sửa chữa): 14.000.000đ x 30% = 4.200.000đ.

- 01 (một) chuột máy tính (loại có dây) nhãn hiêu Logitech, giá trị còn lại 80%: 200.000đ x 80% = 160.000đ.

- 01 (một) cặp xách đựng máy tính (không rõ nhãn hiệu). giá trị còn lại 80%: 200.000đ x 80% = 160.000đ.

- Tiền Việt Nam: 120.000đ.

Tại Cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 23/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Nguyễn Đình T và Nguyễn Trọng Ng về tội “Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Trọng Ng và Nguyễn Đình T theo cáo trạng số: 30/CT-VKS ngày 23 tháng 01 năm 2019 và đề nghị:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng Ng và Nguyễn Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Ng từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù.

- Đối với Lê Công M: Trong vụ án này M chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên đề nghị Công an thành phố Cà Mau có biện pháp xử lý hành chính.

- Đối với Trần Văn N: N đã bỏ trốn, cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau đã khởi tố bị can, tách ra, truy nã vào ngày 21/12/2018, khi có kết quả xử lý sau.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ 01 hột quẹt gas màu đỏ - đen có chức năng đèn pin.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, các bị cáo không khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp, được thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.

[2] Về hành vi phạm tội và mức lượng hình: Tại phiên tòa, các bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Theo đó thể hiện: Khoảng 00 giờ ngày 21/9/2018, bị cáo Nguyễn Trọng Ng và Nguyễn Đình T đã cùng với Lê Công M và Trần Văn N bàn bạc, thống nhất cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, kết quả đã trộm cắp tài sản của anh Dương Thanh H1 có tổng giá trị 4.640.000 đồng.

Xét thấy hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây mất an ninh trật tự địa phương, gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Khi phạm tội, các bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Tài sản trộm cắp có tổng giá trị 4.640.000đ. Dó đó hành vi của các bị cáo cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi các bị cáo đã thực hiện. Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng quy định pháp luật.

Trong vụ án này, bị cáo T là người trực tiếp lấy trộm tài sản. Bị cáo T là người có nhân thân xấu vì đã hai lần bị Toà án xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù vào 26/4/2018, bị cáo T không biết sửa đổi mà tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 21/9/2018. Bị cáo N tham gia với vai trò đồng phạm vì là người phát hiện và thông báo việc có nhà khóa cửa ngoài, đã tham gia bàn bạc, canh đường cho T và M trộm, đồng thời là người cất giấu tài sản sau khi T và M trộm được. Bị cáo N không có tiền án, tiền sự. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy cần có hình phạt tương xứng với nhân thân, với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện, nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo ý thức tôn trọng pháp luật và phòng ngừa chung cho toàn xã hội; để các bị cáo có thời gian suy nghĩ về những hành vi sai trái của mình mà có hướng sửa đổi bản thân trở thành người tốt, sống có ích cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị đã cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo đã tự nguyện giao nộp tài sản trộm cắp để trả lại cho bị hại, nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Nguyễn Trọng Ng phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về vật chứng: Xét thấy 01 hột quẹt gas màu đỏ đen có chức năng đèn pin là công cụ bị cáo T dùng phục vụ cho việc trộm cắp tài sản, do không còn sử dụng được nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại một phần tài sản bị mất trộm và không có yêu cầu gì thêm về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là phù hợp.

[6] Đối với Lê Công M và Trần Văn N: Khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh H1, M chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên Công an thành phố Cà Mau xử lý hành chính đối với M; Trần Văn N đã bỏ trốn, cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau đã khởi tố bị can đối với N, tách ra, truy nã vào ngày 21/12/2018, có kết quả xử lý sau là phù hợp.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng Ng phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Ng 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 hột quẹt gas màu đỏ - đen, có chức năng đèn pin (theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/01/2019).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nguyễn Trọng Ng, Nguyễn Đình T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm (chưa nộp).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về