Bản án 31/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHỔ YÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 27/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/3/2019, tại hội trường nhà văn hóa xóm Xuân Trù, xã Tiên Phong, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 29/2019/HSST ngày 31/1/2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2019/QĐXX-ST ngày 12/3/2019 đối với bị cáo:

Phạm Việt H; tên gọi khác: Không; sinh năm 1975

Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: thôn Ninh Kiều, xã Tân Dân, huyện Sóc Sơn, Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: không; tiền sự: không;

Tiền án: 02 tiền án;

+ Năm 2011, bị Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số 77/2011/HSST ngày 12/5/2011, chấp hành xong án phạt tù ngày 11/6/2013.

+ Năm 2014, bị Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 05 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tại Bản án số 51/2014/HSST ngày 15/5/2014. Bị cáo chấp hành xong án phạt tù ngày 09/4/2018, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo bị coi là “Tái phạm nguy hiểm”.

Nhân thân: Năm 2005, bị Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 58/2005/HSST ngày 19, 20/5/2005; Năm 2008, bị Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 63/2008/HSST ngày 29/9/2008.

Con ông Phạm Đăng M ( đã chết) và bà Nguyễn Thị N; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ ba; có vợ Bùi Thị Bạch Y, sinh năm 1976 ( đã ly thân), vợ chồng có 01 con chung sinh năm 2011.

Bị cáo bị giam giữ từ ngày 13/12/2018 đến nay, tại nhà tạm giữ, lưu giam Công an thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên. Có mặt.

* Người làm chứng:

1. Lê Đức C; sinh năm 1984; Trú quán: xóm Hợp Thịnh, xã Trung Thành , thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên. Vắng mặt

2. Nguyễn Anh H; sinh năm 1977;Trú quán: xóm Cầu Sơn, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, Thái Nguyên. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 50 phút ngày 13/12/2018, tại hành lang bên phải đường Quốc lộ 3 cũ hướng Hà Nội đi Thái Nguyên thuộc xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, Tổ công tác của Công an thị xã Phổ Yên đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát đảm bảo an ninh trật tự tại khu vực xóm Kim Tỉnh, thì phát hiện Phạm Việt H có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, H tự nguyện giao nộp 01 (một) gói giấy màu xanh hồng, bên trong có chứa chất rắn màu trắng đục, theo H khai nhận số chất rắn màu trắng đục là chất ma túy lại Heroine, H mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Việt H, niêm phong vật chứng thu giữ và đưa về Cơ quan Công an thị xã Phổ Yên để giải quyết theo quy định.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên đã tiến hành cân trọng lượng số chất rắn màu trắng đục thu giữ niêm phong ký hiệu A thu giữ của Phạm Việt H được 0,238 gam ( đã trừ bì), lấy tất cả niêm phong ký hiệu M gửi giám định tại Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.

Tại bản Kết luận giám định số 148/KL-PC09 ngày 20/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Chất rắn màu trắng đục trong mẫu M gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,238 gam.

Quá trình điều tra, Phạm Việt H khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 09 giờ ngày 13/12/2018, H đi xe khách từ nhà ở xã Tân Dân, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xuống khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên với mục đích mua ma túy về để sử dụng. Khi đến xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, H xuống xe rồi đi bộ vào một ngôi nhà có cửa sắt đóng kín, bên ngoài có rèm che bằng lưới màu đen, nằm bên phải hành lang đường Quốc lộ 3 cũ hướng Hà Nội đi Thái Nguyên. Sau đó, H cầm số tiền 150.000đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) đưa qua khe cửa sắt phía dưới sát nền bê tông vào bên trong ngôi nhà thì có người bên trong nhà cầm tiền rồi đưa ra ngoài cho H 01 (một) gói ma túy được gói bên ngoài bằng giấy màu xanh hồng. H không biết chủ ngôi nhà trên và người bán ma túy cho mình là ai. Sau khi mua được ma túy, H đi bộ ra ngoài hành lang đường Quốc lộ 3 để bắt xe về thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang. H đã tự nguyện giao nộp gói ma túy vừa mua được.

Tại Bản cáo trạng số 26/CT-VKSPY, ngày 29/1/2019, Viện kiểm sát nhân nhân thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Phạm Việt H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng đã thu giữ.

Kết thúc phần thẩm vấn, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Phạm Việt H từ 07-08 năm tù.

* Hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mục đích tàng trữ để sử dụng không có mục đích bán, nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

* Vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu M ghi hoàn lại 0,224 gam hêrôin mẫu còn lại sau giám định; 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu N ghi lưu kho.

Bị cáo phải chịu án phí và được quyền kháng cáo theo quy định.

Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử là không oan, đúng người, đúng tội. Lời nói cuối cùng của bị cáo hứa sửa chữa và xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Phổ Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Thư ký tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà là khách quan, thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của người làm chứng, với vật chứng thu được và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử đủ căn cứ xác định: Hồi 09 giờ 50 ngày 13/12/2018, tại khu vực hành lang bên phải đường Quốc lộ 3 cũ hướng Hà Nội đi Thái Nguyên thuộc xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, Phạm Việt H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,238 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân, thì bị Tổ công tác Công an thị xã Phổ Yên phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi, ý thức của Phạm Việt H đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý quy định tại Điều 249 BLHS năm 2015. Ngoài lần phạm tội này trước đó bị cáo đã có 02 tiền án, cụ thể năm 2011, bị Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tại Bản án số 77/2011/HSST ngày 12/5/2011( chấp hành xong án phạt tù ngày 11/6/2013).Năm 2014, bị Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 05 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số 51/2014/HSST ngày 15/5/2014, chấp hành xong án phạt tù ngày 09/4/2018, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”, đây là tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015. Do đó bản cáo trạng số 26/CT-VKSPY ngày 29/1/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Phổ Yên truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Nội dung Điều luật quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

...

o, Tái phạm nguy hiểm”.

[4] Xét tính chất vụ án thấy: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ ma tuý là mặt hàng cấm do nhà nước độc quyền quản lý, song do nghiện ma túy, đã dẫn bị cáo vào con đường phạm tội, hành vi của bị cáo thể hiện tính coi thường pháp luật, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, là nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ các con nghiện trên địa bàn đồng thời làm gia tăng các tệ nạn xã hội khác. Do đó việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Xét nhân thân bị cáo thấy: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân để trở thành công dân có ích cho xã hội, trái lại bị cáo có nhân thân rất xấu, trước đó bị cáo đã nhiều lần bị kết án về hành vi khác nhau. Cụ thể Năm 2011, bị Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Năm 2014, bị Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 05 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” ( hai bản án này của bị cáo chưa được xóa án tích). Ngoài ra năm 2005, bị Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 58/2005/HSST ngày 19, 20/5/2005. Năm 2008, bị Tòa án nhân dân thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 63/2008/HSST ngày 29/9/2008. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, sửa chữa lỗi lầm, làm ăn lương thiện, trái lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo.

[6] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thấy: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận thức được lỗi lầm của mình đã gây ra nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào quy định tại Điều 52 BLHS( vì tình tiết tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng đối với bị cáo)

[7] Hội đồng xét xử khi lượng hình thấy: Bị cáo có nhân thân rất xấu, đã nhiều lần vi phạm pháp luật nhưng không chịu cải tạo để trở thành công dân có ích cho xã hội, trái lại đua đòi, lười lao động, mắc nghiện ma túy. Để đảm bảo kỷ cương pháp luật, Hội đồng xét xử thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, hành vi của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa xét thấy có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo gây ra nên Hội đồng xét xử sau khi xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải tạo, mau chóng trở về với gia đình và xã hội.

[8] Hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy về sử dụng không có mục đích mua, bán nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[9] Vật chứng của vụ án thu giữ gồm: Số ma túy hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định.

Về nguồn gốc ma túy H khai mua tại một ngôi nhà phía bên phải hành lang đường Quốc lộ 3 cũ hướng Hà Nội đi Thái Nguyên thuộc khu vực xóm Kim Tỉnh, xã Trung Thành, thị xã Phổ Yên. H không biết chủ nhân ngôi nhà và người bán ma túy cho mình là ai nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Phổ Yên tiếp tục điều tra, xử lý sau.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Việt H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Phạm Việt H 06 ( sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 13/12/2018.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Phạm Việt H 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 47BLHS năm 2015; Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu M ghi hoàn lại 0,224 gam hêrôin mẫu còn lại sau giám định; 01 phong bì đã niêm phong có dấu đỏ ký hiệu N ghi lưu kho.

(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thị xã Phổ Yên với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phổ Yên ngày 18/2/2019).

4. Án phí: Căn cứ điều 135, 136 BLTTHS, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Việt H phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự . Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phổ Yên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về