Bản án 31/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26/4/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện GL, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2019/HSST ngày 09/4/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/QĐXXST-HS ngày 12/4/2019 đối với bị cáo:

1. Đinh Duy Th, sinh năm 1994; Nơi cư trú: thôn SN, xã HĐ, huyện KB, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Mường; giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đinh Thế H, con bà Đinh Thị C; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba; Tiền án, tiền sự: không; đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 25/01/2019 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

2. Trần VTh, sinh năm 1981; Nơi cư trú: thôn CH, xã HL, huyện PX, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn G, con bà Lương Thị T; Có vợ là Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1983; Có 02 con: lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: không; Đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 25/01/2019 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Công ty CPXD số 9- Tổng công ty cổ phần V; Địa chỉ: Tòa nhà V 9, lô HH2-2 đường PH, đường MT, quận NTL, Hà Nội. Đại diện theo ủy quyền là ông Trịnh Mạnh H- sinh năm 1976, Chỉ huy phó dự án Vincity; Trú tại: Khu phố 3, phường BĐ, thị xã BS, tỉnh Thanh Hóa. Theo Giấy ủy quyền số 39/2019/UQ/VC9-TCLĐ ngày 09/4/2019 của Tổng giám đốc Công ty CPXD số 9. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đinh Duy Th lái xe tải thuê cho anh Trần VTh, sinh năm 1983, trú tại: thị trấn TM, huyện TM, tỉnh Hải Dương từ ngày 23/11/2018. Còn Trần Văn Th làm công việc lái máy xúc Hitachi, mã ZAXIS-3 theo sự điều hành của Công ty TNHH Vận tải và Thương mại PQ tại công trường V- GL. Ngày 24/12/2018, Th có lịch làm việc lái xe tải BKS : 29C-563.63 chở bùn đất trong công trường V từ 18 giờ ngày 24/12/2018 đến 6 giờ sáng ngày 25/12/2018. Khoảng 01 giờ 30 phút ngày 25/12/2018, Th gọi điện thoại cho VTh hỏi khi xúc đất tại công trường có xúc được sắt không, nhằm mục đích lấy trộm sắt đưa ra ngoài bán, VTh trả lời có, nên Th lái xe tải BKS : 29C-563.63 đến chỗ VTh đang lái máy xúc, VTh điều khiển máy xúc Hitachi, mã ZAXIS-3, đưa 2 tấm cầu sắt lên thùng xe tải của Th, và xúc đất đổ lên phủ kín 02 tấm cầu sắt. Sau đó, Th lái xe tải BKS: 29C-563.63 chở 02 tấm cầu sắt ra ngoài. Khi Th đi đến cổng bảo vệ 11 đường số 4 của công trình V thì bị lực lượng bảo vệ yêu cầu dừng xe, kiểm tra và trình báo Cơ quan Công an.

Vật chứng thu giữ của Đinh Duy Th: 02 khung kim loại sắt, mỗi khung có kích thước khoảng (2,1 X 2,0 X 0,4)m ; 01 chiếc điện thoại Iphone 4S màu trắng, màn hình cảm ứng ốp sau bị vỡ, có số Imei : 013044008221890; 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu CNHTC màu xanh, BKS 29C-563.63, số máy: 141007020457, số khung LSD1EN932369, 01 đăng ký xe ô tô số 324769 mang tên Đào Minh Tr ; 01 đăng kiểm xe ô tô số KC7833386; 01 biên lai thu tiền phí sử dụng đường bộ; 01 hợp đồng mua bán xe ô tô.

Tại Kết luận định giá tài sản số 11/KL-HĐĐG ngày 03/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện GL: Tại thời điểm ngày 25/12/2018: 02 cầu rửa xe bằng kim loại sắt có khung, KT (2,08m X 1,97m X 0,4m), một mặt được hàn nhiều thanh sắt V, tổng trọng lượng hai cầu là: 1.480 kg có giá: 8.880.000 đồng (6.000 đồng/01kg X 1.480 kg).

Quá trình điều tra, Đinh Duy Th và Trần VTh còn khai nhận: Trước đó, ngày 20/12/2018, VTh cũng sử dụng máy xúc Hitachi, mã ZAXIS-3 để xúc sắt vụn tại công trường lên xe tải BKS: 29C-563.63 cho Th điều khiển, Th bán cho một người đi đường không quen biết được số tiền 1.600.000 đồng, Th chia cho VTh số tiền là 700.000 đồng. Tuy nhiên, anh Trịnh Mạnh H là đại diện ủy quyền hợp pháp của Công ty CPXD số 9- Tổng công ty Cổ phần V trình bày số sắt vụn đó là phế liệu không còn giá trị sử dụng, cho phép công nhân tự lấy, nên không yêu cầu đề nghị gì.

Ngày 11/01/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện GL đã trao trả lại 02 chiếc cầu rửa xe bằng kim loại sắt có khung kích thước 2,08m X 1,97m X 0,4m cho Công ty CPXD số 9, anh Trịnh Mạnh H đã đại diện nhận lại 02 chiếc cầu rửa xe và không có yêu cầu bồi thường gì về mặt dân sự.

Đối với anh Trần Văn Th là người thuê Th lái xe tải BKS: 29C-563.63 chở bùn đất trong công trường V, anh Trần Văn Th không biết việc Th sử dụng xe để trộm cắp tài sản. Ngày 28/02/2019, Cơ quan CSĐT - Công an huyện GL đã trao trả cho anh Trần Văn Th: 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu CNHTC màu xanh, BKS 29C-563.63, số máy: 141007020457, số khung LSD1EN932369, 01 đăng ký xe ô tô số 324769 mang tên Đào Minh Tr; 01 đăng kiểm xe ô tô số KC7833386; 01 biên lai thu tiền phí sử dụng đường bộ; 01 hợp đồng mua bán xe ô tô. Anh Th đã nhận lại xe ô tô và các giấy tờ trên, không có yêu cầu đề nghị gì.

Công ty TNHH vận tải và thương mại PQ không biết việc Trần Văn Th sử dụng máy xúc Hitachi, mã ZAXIS-3 để trộm cắp tài sản, nên Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện GL cũng đã bàn giao máy xúc Hitachi, mã ZAXIS-3 cho ông Nguyễn Minh T- là người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH vận tải và thương mại PQ.

Đối với chiếc điện thoại mà VTh sử dụng để liên lạc với Th về việc trộm cắp tài sản ngày 25/12/2018 tại công trường V, trong quá trình đi làm, Th đã làm rơi mất nên không thu giữ được.

Bản cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 08/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện GL truy tố Đinh Duy Th, Trần VTh về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Đinh Duy Th, Trần VTh đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ cũng như Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện GL giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa, sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, 58, 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Đinh Duy Th từ 12 tháng đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng. Giao bị cáo Th cho chính quyền UBND xã HĐ, KB, Hòa Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

Trần VTh từ 08 tháng đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 tháng đến 24 tháng. Giao bị cáo VTh cho chính quyền UBND xã HL, PX, Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo;

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với các bị cáo do các bị cáo không có việc làm ổn định.

- Về dân sự: Không phải giải quyết.

- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung công 01 chiếc điện thoại Iphone 4S màu trắng, màn hình cảm ứng ốp sau bị vỡ, có số Imei: 013044008221890.

Các bị cáo không có tranh luận gì bổ sung thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Đinh Duy Th, Trần VTh khai nhận toàn bộ nội dung vụ việc phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và bản Cáo trạng của Viện kiểm sát. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 25/12/2018, tại công trường V- GL thuộc địa phận xã ĐT, GL Hà Nội, Đinh Duy Th và Trần VTh đã có hành vi trộm cắp 02 cầu rửa xe bằng kim loại sắt có giá trị 8.880.000 đồng của Công ty CPXD số 9 - Tổng công ty Cổ phần V. Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội Trộm cắp tài sản, vi phạm khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự .

Trong vụ án này, Đinh Duy Th có vai trò là người khởi xướng và là người thực hành tích cực, Trần VTh có vai trò là người thực hành tích cực. Vì vậy mức hình phạt của Th phải cao hơn của VTh.

Vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, không có tổ chức vì không có sự câu kết chặt chẽ giữa các bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức được pháp luật bảo vệ. Việc các bị cáo lợi dụng sơ hở của chủ tài sản để trộm cắp tài sản gây mất lòng tin trong các đơn vị cùng tham gia xây dựng công trường. Vì vậy, cần phải có biện pháp xử lý nghiêm đối với các bị cáo.

Đánh giá về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Về nhân thân đều chưa có tiền án, tiền sự; Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; Bị cáo Th là người dân tộc thiểu số, gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Do các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có địa chỉ nơi cư trú rõ ràng nên cho các bị cáo được cải tạo ở ngoài xã hội dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương và gia đình cũng giúp các bị cáo cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[2] Về những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với kết quả nghị án của Hội đồng xét xử.

[3] Đánh giá về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp, không có ai khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không phải xem xét.

[4] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt này vì các bị cáo là người lao động tự do, việc làm và thu nhập không ổn định.

[5] Về dân sự: Không phải giải quyết vì đại diện Công ty CPXD số 9 đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu gì về dân sự;

[6] Về vật chứng: Chiếc điện thoại Iphone 4S màu trắng, màn hình cảm ứng ốp sau bị vỡ, có số Imei : 013044008221890 thu của Đinh Duy Th dùng để liên lạc phạm tội nên tịch thu sung công.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo pháp luật quy định

[8] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Duy Th, Trần VTh phạm tội: “ Trộm cắp tài sản”

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, 58, 65 Bộ luật Hình sự.

- Điều 136; Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Xử phạt:

Bị cáo Đinh Duy Th 12 ( mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án.

Bị cáo Trần VTh 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Đinh Duy Th cho UBND xã HĐ, huyện KB, tỉnh Hòa Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

Giao bị cáo Trần VTh cho UBND xã HL, huyện PX, Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Về dân sự: Không phải giải quyết.

Về vật chứng: Tịch thu sung công 01 chiếc điện thoại Iphone 4S màu trắng, màn hình cảm ứng ốp, mặt sau máy bị vỡ, nứt có số Imei: 013044008221890, bên trong có lắp sim (Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/4/2019 giữa Công an huyện GL và Chi cục thi hành án dân sự huyện GL).

Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.

Án xử công khai, sơ thẩm. Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được tống đạt án vắng mặt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về