Bản án 31/2019/HS-ST ngày 18/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 18/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 18 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2018/TLST-HS, ngày 31 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2018/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Q, sinh năm 1970. Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: SN 14, ngõ 219A, đường C, Phường L, thành phố B, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn L, sinh năm 1935 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1935 (đã chết); vợ: Đoàn Thị H, sinh năm 1976; con: Chưa có; tiền án: Tại bản án số 40/2017/HSST ngày 17/8/2017, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt 18 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản"; tiền sự: Không có; nhân thân: Tại bản án số 40/HSPT ngày 12/4/1995, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc (tỉnh Bắc Giang) xử phạt 03 năm tù về tội "Cướp tài sản"; Năm 2001 Công an thị xã Bắc Giang xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; Tại bản án số 44/HSPT ngày 22/4/2002, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phạt 18 tháng tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản"; Tại bản án số 02/2009/HSST ngày 20/01/2009, Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt 15 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/01/2019, hiện đang tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1971 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Thôn C, xã T, thành phố B, tỉnh B.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Đoàn Thị H, sinh năm 1976 (có mặt).

Nơi cư trú: SN 14, ngõ 219A, đường C, Phường L, thành phố B, tỉnh B.

- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1998 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Thôn T, xã T, thành phố B, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 20 phút ngày 16/01/2019, bị cáo Nguyễn Văn Q điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu sơn Đen Xám, biển kiểm soát 98B2-677.57 đi một mình từ nhà ra chợ hoa quả của bà Nguyễn Thị N để mua hoa quả. Trong lúc đang chọn mua quả bưởi thì bị cáo phát hiện 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A5, vỏ màu trắng của bà Nguyễn Thị N để ở trên giường ngủ, nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại di động trên mang đi bán lấy tiền chi tiêu cá nhân; quan sát xung quanh thấy không có người, không có ai để ý. Bị cáo đi đến dùng tay phải cầm chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A5 đút vào túi quần phía sau bên phải, Sau khi trộm cắp được điện thoại định đi ra ngoài thì bà Nguyễn Thị N phát hiện và bảo với bị cáo "Mày lấy điện thoại di động của tao" thì bị cáo rút điện thoại ra trả lại bà Nguyễn Thị N và đi ra lấy xe mô tô định đi về thì bà Nguyễn Thị N giữ lại và trình báo cho Công an xã Tân Mỹ. Lợi dụng sự sơ hở, bị cáo điều khiển xe mô tô bỏ chạy đến cổng Uỷ ban nhân dân xã Tân Mỹ thì bị Công an xã Tân Mỹ bắt giữ và đưa về Công an xã Tân Mỹ, thành phố Bắc Giang lập biên bản quả tang và thu giữ 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98B21-677.57, 01 đăng ký xe mô tô, 01 ví da màu nâu.

Ngày 17/01/2019, Cơ quan điều tra đã có yêu cầu định giá tài sản. Tại kết luận định giá tài sản số 07/KL-HĐĐG ngày 18/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Bắc Giang kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A5, vỏ màu trắng, máy đã qua sử dụng có giá trị 1.800.000 đồng.

Tại Quyết định truy tố số: 26/QĐ-VKS ngày 28/01/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố - tỉnh Bắc Giang truy tố Nguyễn Văn Q về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà:

Bị cáo Nguyễn Văn Q khai nhận toàn bộ hành vi như sau:

Khong 13 giờ 20 phút ngày 16/01/2019, bị cáo đi xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu sơn Đen Xám, biển kiểm soát 98B2-677.57 đến nhà bà Nguyễn Thị N để mua hoa quả. Trong lúc đang chọn mua quả bưởi thì bị cáo phát hiện 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A5, vỏ màu trắng của bà Nguyễn Thị N để ở trên giường ngủ, bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại di động trên mang đi bán lấy tiền chi tiêu cá nhân; quan sát xung quanh thấy không có người, không có ai để ý. Bị cáo lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A5 đút vào túi quần phía sau bên phải, Sau khi trộm cắp được điện thoại định đi ra ngoài thì bà Nguyễn Thị N phát hiện, bị cáo trả lại bà Nguyễn Thị N và đi ra lấy xe mô tô định đi về thì bị Công an xã Tân Mỹ bắt giữ và đưa về Công an xã Tân Mỹ, thành phố Bắc Giang lập biên bản quả tang và thu giữ 01 chiếc xe mô tô BKS 98B2- 677.57, 01 đăng ký xe mô tô, 01 ví da màu nâu. Nay, bị cáo thấy là đã vi phạm pháp luật, đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

- Bị hại là bà Nguyễn Thị N xác định:

Khong 13 giờ 20 phút ngày 16/01/2019, bà và con gái bà đang bán hàng hoa quả tại nhà thì bị cáo Nguyễn Văn Q đến để mua hoa quả. Trong lúc bị cáo đang chọn mua quả bưởi thì bà có đi xuống bếp nhà, khi quay lên thì phát hiện bị cáo đã lấy 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A5, vỏ màu trắng của bà để ở trên giường ngủ. Sau đó, bà trình báo cho Công an xã Tân Mỹ bắt giữ bị cáo. Chiếc điện thoại bà đã được nhận trả lại không có yêu cầu gì.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Đoàn Thị H, xác định:Bà là vợ của bị cáo Nguyễn Văn Q. Chiếc xe mô tô BKS 98B2-677.57 mà bị cáo dùng để đi đến nhà bà Nguyễn Thị N mua hoa quả là của bà, trước đây bà bỏ tiền ra mua, nhưng do chưa có bằng lái xe nên đăng ký tên chồng bà là bị cáo Nguyễn Văn Q. Nay, bà đề nghị được xin lại chiếc xe này.

Nhng người làm chứng trong vụ án là đều xác định: Buổi chiều ngày 16/01/2019, tại quán bán hoa quả của bà Nguyễn Thị N, bị cáo Nguyễn Văn Q đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A5 của bà Nguyễn Thị N.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích tính chất, nội dung hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ vẫn giữ nguyên về Quyết định truy tố, đề nghị:

1. Tuyên bố Nguyễn Văn Q phạm tội: “Trộm cắp tài sản” .

2. Về áp dụng điều luật và mức hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn Q từ 07 tháng đến 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 16/01/2019).

3. Về vật chứng:

Áp dụng khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo 01 chiếc xe mô tô BKS 98B2- 677.57, 01 đăng ký xe mô tô, 01 ví da màu nâu.

Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự: Buộc Nguyễn Văn Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Phần tranh luận:

- Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo thấy là sai trái, là vi phạm pháp luật, đề nghị được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Căn cứ các chứng cứ tài liệu được thẩm tra, kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bắc Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về tội danh:

Sau khi xem xét lời khai của bị cáo, bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng có trong hồ sơ cũng như tại phiên toà, cũng như tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Thẩm phán thấy:

Khong 13 giờ 20 phút ngày 16/01/2019, tại cửa hàng bán hoa quả của bà Nguyễn Thị N ở thôn Chợ Mía, xã Tân Mỹ, thành phố Bắc Giang bị cáo Nguyễn Văn Q lợi dụng sự sơ hở đã chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A5, vỏ màu trắng trị giá 1.800.000 đồng của bà Nguyễn Thị N thì bị Công an xã Tân Mỹ bắt giữ.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác.

Bị cáo có năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, đây là tình tiết định tội đối với bị cáo. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Nguyễn Văn Q phạm tội: “Trộm cắp tài sản", theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, quy định: “1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) ……… b) Đã bị kết án về tội này…….” Do đó, Quyết định truy tố số 26/QĐ-VKS ngày 28/01/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang - tỉnh Bắc Giang truy tố đối với Nguyễn Văn Q là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét đề nghị của Kiểm sát viên thấy là có căn cứ, mức hình phạt là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, cần xem xét đến các tình tiết như sau:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan Điều tra, cũng như tại phiên toà, bị cáo tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ để áp dụng cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân không tốt. Nên cần bắt bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian, để giáo dục bị cáo theo Điều 38 của Bộ luật hình sự.

[4]. Về hình phạt bổ sung:

Qua tài liệu xác minh và lý lịch của bị cáo thì thấy: Bị cáo không có việc làm ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng:

Bị cáo bị thu giữ chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu sơn Đen Xám biển kiểm soát 98B2- 677.57, 01 đăng ký xe mô tô, 01 ví da màu nâu. Quá trình giải quyết vụ án bà Đoàn Thị H là vợ của bị cáo cho rằng chiếc xe mô tô này là của bà, bà mua là do tiền của bà có được, nhưng đứng tên bị cáo đăng ký quyền sở hữu, nhưng bà không có chứng cứ nào xác định là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà, mà xác định đây là tài sản của bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo cũng không dùng làm phương tiện cho việc phạm tội, cần trả lại cho bị cáo theo quy định khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6]. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[7]. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự , để Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo.

[8]. Tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án theo Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Nguyễn Văn Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn Q 08 (tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam (ngày 16/01/2019).

3. Về vật chứng:

Áp dụng khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo 01 chiếc xe mô tô BKS 98B2- 677.57, 01 đăng ký xe mô tô, 01 ví da màu nâu, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2- Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự .

5. Về quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 18/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về