Bản án 31/2019/HS-ST ngày 12/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH - TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 12/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2019/HSST ngày 29 tháng 5 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Trung H (tên gọi khác: không), sinh năm 1988, tại Tây Ninh. Nơi thường trú: Tổ 17, ấp Cầy X, xã Đồng K, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con Lê Văn H và bà Châu Thị H; vợ là Tô Thị Ngọc Y; con: có 02 người, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; về nhân thân: Tại Bản án số: 188/2010/HSPT ngày 21-10-2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt bị cáo H 03 năm tù về tội “Cướp tài sản”, bị cáo H đã được xóa án tích. Tại Quyết định số 57/QĐ-XPVPHC ngày 01-7-2018 của Công an xã Đồng K, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xử phạt Lê Trung H về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị áp dụng Biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 19-12-2018 cho đến nay.(có mặt)

Bị hại: Công ty cổ phần Xây lắp Điện miền Nam; địa chỉ trụ sở: số 191/5, khu phố Bình Đường 3, Phường An Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương; đại diện theo pháp luật là ông Trần Minh Khoa, chức vụ: Giám đốc.(có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ, ngày 14 tháng 6 năm 2018, bị cáo Lê Trung H điều khiển xe mô tô hiệu Warm màu nâu, biển số 70B1-726.27 đến kho đựng vật tư dùng để thi công lưới điện của Công ty Xây lắp Điện miền Nam tại ấp Tua Hai, xã Đồng K, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh để cắt cỏ. Lợi dụng kho không có người trông coi nên H lén lút lại thùng đựng bulong dùng để thi công lưới điện lấy trộm 03 bao tải nhỏ đựng bulong có tổng trọng lượng 84 kg, bao gồm 122 bộ bulong loại 16 x 50 mm, trọng lượng 18 kg; 20 bộ bulong loại 16 x 200 mm, trọng lượng 08 kg; 200 bộ bulong loại 20 x 60 mm, trọng lượng 58 kg rồi giấu trong bao cỏ chở ra ngoài thì bị Công an xã Đồng K phát hiện, bắt quả tang, thu H tài sản.

Quá trình điều tra, bị cáo H khai nhận ngoài lần bị bắt quả tang, H còn thực hiện 01 lần trộm cắp bulong khác. Cụ thể: khoảng 15 giờ, ngày 12 tháng 6 năm 2018, H cũng điều khiển xe mô tô biển số 70B1-726.27 đến kho đựng vật tư dùng để thi công lưới điện của Công ty Xây lắp Điện miền Nam để cắt cỏ. Trong lúc cắt cỏ, H phát hiện thùng đựng bulong dùng để thi công lưới điện nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Lợi dụng lúc kho không có người trông coi nên H lén lút lấy trộm 334 bộ bulong loại 20 x 60 mm có tổng trọng lượng 97 kg giấu trong bao cỏ rồi đem về đám tràm gần nhà cất giấu. Sau đó, H chở số bulong trộm được đến tiệm mua bán phế liệu thuộc khu vực ấp Suối Muồn, xã Thái Bình, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh bán cho ông Hồ Văn Minh, sinh năm 1957 với số tiền hơn 500.000 đồng. Số tiền có được, H tiêu xài cá nhân hết.

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 45/KL-HĐĐG ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành, kết luận:

- 122 bộ bulong bằng kim loại sắt mạ kẽm, loại 16 x 50 mm gồm: 01 bulong, 02 long đền, 01 đai ốc, trị giá 919.880 đồng;

- 20 bộ bulong bằng kim loại sắt mạ kẽm, loại 16 x 200 mm gồm: 01 bulong, 02 long đền, 02 đai ốc, trị giá 322.000 đồng;

- 200 bộ bulong bằng kim loại sắt mạ kẽm, loại 20 x 60 mm gồm: 01 bulong, 02 long đền, 01 đai ốc, trị giá 1.992.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 13/KL-HĐĐG ngày 15 tháng 02 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Châu Thành, kết luận: 334 bộ bulong bằng kim loại sắt mạ kẽm, loại 20 x 60 mm gồm: 01 bulong, 02 long đền, 01 đai ốc, trị giá 3.326.640 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 24/QĐ-KSĐT ngày 13 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Lê Trung H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành trong phần tranh luận đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo H về tội danh trên, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lê Trung H từ 06 đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị cáo H đã chuộc lại tài sản trả lại cho bị hại và bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Về vật chứng: Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xử lý trả lại vật chứng theo quy định pháp luật cho chủ sở hữu.

Bị cáo H tự bào chữa: Bị cáo H thống nhất với bản Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến gì bào chữa cho mình.

Bị cáo H nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết lỗi, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và có cơ hội sửa chữa sai lầm, làm một công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: bị hại là công ty cổ phần Xây lắp Điện miền Nam có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và ý kiến đã có đầy đủ trong hồ sơ. Việc xét xử vắng mặt bị hại không ảnh hưởng đến nội dung vụ án nên bị cáo và đại diện Viện kiểm sát đề nghị xét xử vắng mặt bị hại. Căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên toà, bị cáo Lê Trung H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình theo đúng nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố. Do muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo H đã 02 lần lén lút trộm cắp Bulong của công ty cổ phần Xây lắp Điện miền Nam bán để lấy tiền tiêu xài. Cả 02 lần bị cáo H trộm cắp tài sản đều đủ yếu tố cấu thành cơ bản của tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo H nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện.

Xét lời khai nhận của bị cáo H là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản vụ việc, vật chứng, kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Trung H phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Vụ án mang tính chất ít nghiêm trọng, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của tổ chức được pháp luật hình sự bảo vệ. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hửu tài sản của bị hại mà còn gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng có tiền án về tội “Cướp tài sản” nhưng đã được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội. Sau khi trộm cắp tài sản, bị cáo H còn có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và bị Công an xã Đồng K, huyện Châu Thành ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bảo đảm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo H đã tự nguyện chuộc lại tài sản trả lại cho bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi áp dụng hình phạt đối bị cáo.

Bị cáo H 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đều cấu thành cơ bản của tội “Trộm cắp tài sản”. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xét thấy bị cáo H không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã trả lại cho bị hại và bị hại không yêu cầu bồi thường gì khác nên ghi nhận.

[5] Về vật chứng: Căn cứ các Điều 46 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xử ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều trả đã trả lại cho chủ sở hữu:

- Trả lại cho công ty CP Xây lắp Điện miền Nam 122 bộ bulong bằng kim loại sắt mạ kẽm, loại 16 x 50 mm gồm: 01 bulong, 02 long đền, 01 đai ốc; 20 bộ bulong bằng kim loại sắt mạ kẽm, loại 16 x 200 mm gồm: 01 bulong, 02 long đền, 02 đai ốc; 534 bộ bulong bằng kim loại sắt mạ kẽm, loại 20 x 60 mm gồm: 01 bulong, 02 long đền, 01 đai ốc. Công ty CP Xây lắp Điện miền Nam đã nhận lại đủ tài sản và không yêu cầu gì khác.

- Trả cho chị Tô Thị Ngọc Thanh 01 (một) xe mô tô hiệu WARM màu nâu, biển số 70B1-726.27, đã qua sử dụng và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 70B1-726.27. Chị Thanh đã nhận lại đủ tài sản và không yêu cầu gì khác.

[6] Bị cáo H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Đối với ông Hồ Văn Minh là người mua tài sản của bị cáo H nhưng ông Minh không biết đây tài sản do H phạm tội mà có nên không truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” đối với ông Minh. Bị cáo H đã trả lại tiền mua tài sản cho ông Minh và ông Minh không yêu cầu gì khác nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Trung H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Trung H 09 (Chín) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận tài sản đã trả lại cho bị hại, bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 46 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu, chủ sở hữu đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác.

4. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 12/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về