Bản án 31/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 03/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng  4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh  Hà  Nam,  xẻt  xử  sơ thẩm công khai  vụ  án  hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo: Duy Thanh T, sinh năm 1985; Nơi ĐKNKTT: Thôn H, xã T, huyện T, thành phố Hà Nội; chỗ ở: Thôn T, xó M, huyện B, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Duy Thanh  Đ, sinh năm 1953 và bà Phạm Thị L, sinh năm 1965; vợ: Trần Thị A; con: có hai con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 05/8/2004 Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hà Nội xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội “Đánh bạc”.

Ngày 13/6/2005 Tòa án nhân dân huyện Th, thành phố Hà Nội xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt phải chấp hành chung của hai bản án là 15 tháng tù.

Ngày 18/6/2009 Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hà Nội xử phạt 42 tháng tu về tội “Cưỡng đoạt tài sản’.

Ngày 02/12/2015 Công an huyện B, tỉnh Hà Nam ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị tạm giữ từ ngày 19/12/2018 đến ngày 25/12/2018 chuyển tạm giam cho đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn N, sinh năm1983; Trú tại: Tiểu khu B, trị trấn B,  huyện B, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Đinh Quang V, sinh năm 1989; Trú tại: Thôn M, xã T, huyện T, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ ngày 19/12/2018, Duy Thanh T điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 17K3-4427 đến Trung tâm kiểm soát bệnh tật tỉnh Hà Nam thuộc tổ dân phố M, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam để uống thuốc Methadone thì gặp bạn nghiện tên T1, khoảng 30 tuổi, không rõ địa chỉ. Trong lúc nói chuyện cả hai rủ nhau đi mua ma túy để sử dụng. Duy Thanh T đưa cho T1 200.0000đ, T1 cầm tiền và điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 17K3-4427 chở Duy Thanh T đi đến xóm 3, xã L, thành phố P, tỉnh Hà Nam thì Duy Thanh T xuống xe đợi, T1 điều khiển xe đi một lúc sau quay lại chở Duy Thanh T đi tìm chỗ sử dụng ma túy. Trên đường đi T1 đưa cho Duy Thanh T 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, biết bên trong có ma túy nên Duy Thanh T cầm ở bàn tay trái. T1 điều khiển xe mô tô đi được một đoạn thì  bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý thấy có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra T1 dừng xe rồi bỏ chạy. Duy Thanh T tự giác giao nộp 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng cho lực lượng Công an, kiểm tra bên trong có 01 một gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng, dạng cục. Tại chỗ Duy Thanh T khai đó là gói ma túy cất giữ mục đích để sử dụng. Lực lượng Công an đưa T về trụ sở lập biên bản theo quy định. Vật chứng thu giữ gồm: 01 bỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 xe mô tô biển kiểm soát 17K3 – 4427 đó qua sử dụng.

Thực hiện lệnh khám xét nơi ở đồ vật của bị cáo không thu giữ, tài liệu đồ vật gỡ liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 209/PC09-MT ngày 23/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam, kết luận:“Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 là ma túy, khối lượng 0,150g, loại heroine

- Bản cáo trạng số 37/CT-VKSPL ngày 11/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố Duy Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015(đó được sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt là Bộ luật Hinh sự).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù và hướng xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật. Bị cáo phạm tội không nhằm mục đích trục lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

- Bị cáo Duy Thanh T đó khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đó truy tố, không tranh luận và không có lời tự bào chữa chỉ xin Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Anh Trần Văn N có quan điểm:  Anh mua xe vào đầu tháng 12/2018 của chị Bùi Thị Minh T ở Thái Bình với giá 10.000.000đ. Khi bị cáo T mượn xe chỉ nói mượn để đi uống thuốc Methadone. Nay nguyện vong của anh là xin lại chiếc xe để làm phương tiện đi lại hàng ngày.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đó được tranh tụng tại phiên tũa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đó thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đó thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt là đúng pháp luật.

[3]  Đánh giá về tội danh: Đối chiếu lời khai thành khẩn nhận tội của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra. Hội đồng xét xử thấy cơ bản phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người chứng kiến về thời gian, địa điểm, diễn biến vụ án, bản kết luận giám định của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được cơ quan điều tra thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.

Như vậy,có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 40 ngày 19/12/2018, tại Xóm 3, xã L, thành phố P, tỉnh Hà Nam, Duy Thanh T đang cất giữ trái phép 0,150 gam ma túy loại Heroine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an thành phố Phủ Lý phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân rất xấu: cụ thể từ năm 2004 đến năm 2015 đó cú  ba tiền án và một tiền sự (đều đó được xóa) nhưng không lấy đó làm bài học để hoàn thiện bản thân chở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội mà lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội, hành vi đó còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo là người coi thường pháp luật liên tục vi phạm pháp luật nhưng không sửa chữa lỗi lầm mà tiếp tục lún sâu vào con đường phạm tội. Vì vậy khi lượng hình cần phải ra một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bị cáo đó thực hiện để giáo dục, răn đe và nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Xét mục đích phạm tội của bị cáo không nhằm thu lời bất chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật.

[6] Về nguồn gốc số ma túy đó thu giữ, bị cáo khai của người tên T1 là bạn nghiện mới quen đưa cho bị cáo mục đích để sử dụng. Quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng tên T1 nên không có căn cứ xem xét trong vụ án.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đó thu giữ:

- Đối với  toàn bộ số heroine cùng bao gúi hoàn trả sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 17K3 – 4427 đã qua sử dụng, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản hợp pháp của anh Trần Văn N, anh N không biết bị cáo mượn xe mô tô để sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại chiếc xe trên cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Trần Văn N là phù hợp pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ Luật phì và lệ phì số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phì và lệ phì Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Duy Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Duy Thanh T 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2018.

2/ Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì niêm phong dán kín mặt trước ghi mẫu vật hoàn trả QT01 số 209/PC09-MT của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Hà Nam và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

- Trả lại anh Trần Văn N 01chiếc xe máy biển kiểm soát 17K3 – 4427, số máy 0659333, số khung Y659233 (xe đã qua sử dụng).

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam với Chi cục thi hành án dân sự, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ngày 12/3/2019.

3/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về