Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 10/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 31/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 10 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 81/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 27/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2019, quyết định hoãn phiên Tòa số 22/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12/6/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T, sinh năm 1970.

Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện T, tỉnh Thái Bình.

- Bị đơn: Anh Lê Duy X, sinh năm 1969.

Nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện T, tỉnh Thái Bình.

(Chị T có mặt, anh X vắng mặt tại phiên Tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 21/02/2019 cũng như tại bản tự khai, nguyên đơn là chị Vũ Thị T trình bày: Chị và anh Lê Duy X kết hôn với nhau ngày 03/11/1989 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã Vũ Lăng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Vợ chồng chị sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh X không có trách nhiệm và nghĩa vụ với gia đình và thường xuyên uống rượu nên chị không chịu nổi được tính cách của anh X. Do đó chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ chị tại xã Đông Quý ở và vợ chồng chị đã sống ly thân từ năm 1997 đến nay là hơn 20 năm. Chị xác định không còn tình cảm với anh X vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên chị xin được ly hôn anh Lê Duy X. Về con chung: Vợ chồng chị có hai con chung là Lê Thị Lan H, sinh ngày 26/6/1991 và Lê Thị Hoa L, sinh ngày 07/9/1997 hiện nay cả hai cháu đã trưởng thành nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản và nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Lê Xuân B là bố đẻ anh Lê Duy X trình bày: Mâu thuẫn vợ chồng chị T và anh X thì ông không biết cụ thể nhưng từ khi chị T bỏ đi đến nay là 20 năm chị T không gọi điện cũng như không về thăm gia đình ông trong những ngày lễ, Tết. Gia đình ông đã khuyên bảo anh X nhiều lần để vợ chồng về đoàn tụ nhưng không có kết quả. Quan điểm của ông mong muốn vợ chồng anh X và chị T về đoàn tụ.

Bị đơn là anh Lê Duy X không đến Tòa án. Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc Tòa án thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên Tòa nhưng anh X không đến Tòa án, không có văn bản thể hiện ý kiến của anh X có xác nhận của chính quyền địa phương nơi anh X đang sinh sống gửi Tòa án.

Tại phiên Tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiền Hải phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đều tuân thủ theo quy định của pháp luật và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị T được ly hôn anh Lê Duy X.

Về quan hệ con chung: Đối với hai con Lê Thị Lan H, sinh ngày 26/6/1991 và Lê Thị Hoa L, sinh ngày 07/9/1997 đều đã trưởng thành nên không giải quyết. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Không phải giải quyết. Về án phí: Chị Vũ Thị T phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên Toà.

Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Lê Duy X đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên căn cứ vào khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt anh Lê Duy X.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị T và anh Lê Duy X kết hôn với nhau có đăng ký ngày 03/11/1989 tại Ủy ban nhân dân xã Vũ Lăng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình đây là hôn nhân tự nguyện, hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống giữa chị T và anh X không tôn trọng, quan tâm, giúp đỡ nhau cùng nhau chia sẻ thực hiện công việc trong gia đình. Giữa anh X và chị T đều bất đồng về suy nghĩ cũng như lối sống, hành động đều trái ngược nhau, do đó hai bên không quan tâm, không có trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 1997 đến nay. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh X đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị T, xử cho chị T được ly hôn anh X.

[2]. Về quan hệ con chung: Chị T và anh X có hai con chung là Lê Thị Lan H, sinh ngày 26/6/1991 và Lê Thị Hoa L, sinh ngày 07/9/1997 đều đã trưởng thành nên Tòa án không giải quyết.

[3]. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Chị T không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không giải quyết. Anh X không có văn bản nào gửi Tòa án thể hiện quan điểm của mình về phần tài sản và không có lời khai về phần tài sản, không có mặt tại phiên tiếp cận chứng cứ công khai và hòa giải, tại phiên Tòa. Do đó phần tài sản Tòa án không giải quyết. Khi nào các đương sự có yêu cầu chia tài sản phải thực hiện thủ tục khởi kiện theo quy định chung của pháp luật tố tụng dân sự. Tòa án sẽ thụ lý giải quyết bằng một vụ án khác.

[4]. Về án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[5]. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị T và anh Lê Duy X có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 3 điều 228, điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016 án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị T được ly hôn anh Lê Duy X.

2. Về quan hệ con chung: Vợ chồng chị T và anh X có hai con chung là Lê Thị Lan H, sinh ngày 26/6/1991 và Lê Thị Hoa L, sinh ngày 07/9/1997. Đối với hai con Lê Thị Lan H, Lê Thị Hoa L đã trưởng thành nên Tòa án không phải giải quyết.

3. Về quan hệ tài sản và nợ chung: Tòa án không giải quyết về phần tài sản. Khi nào Chị T và anh X có yêu cầu chia tài sản thì phải thực hiện thủ tục khởi kiện theo quy định chung của pháp luật tố tụng dân sự, Tòa án sẽ thụ lý và giải quyết bằng vụ án khác.

4. Về án phí: Chị T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Chị T đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai số 0009018 ngày 05 tháng 4 năm 2019 của chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Chuyển số tiền chị Vũ Thị T đã nộp tạm ứng 300.000 đồng sang tiền án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Lê Duy X có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

259
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 10/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:31/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về