Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỊNH BIÊN - TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 31/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 08 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 68/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2019 về việc "Xin ly hôn" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Cẩm H, sinh năm 1995. Hộ khẩu thường trú: 140/2, ấp C, xã P, huyện C, tỉnh B. Chỗ ở hiện nay: Số 72B/1, Khu phố 1A, phường A, thị xã D, tỉnh B1, có mặt;

- Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1987, chỗ ở hiện nay: tổ 12, ấp T, xã T, huyện T, tỉnh A, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ghi ngày 26 tháng 02 năm 2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết tại Tòa án, cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Nguyễn Thị Cẩm H trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông T chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 40/2015, quyển số 01/2015, ngày 04 tháng 5 năm 2015 của Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh A. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được hơn 01 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, ông T đi làm không lo cho vợ con và mâu thuẫn về vấn đề tiền bạc, từ tháng 9 năm 2017 vợ chồng đã sống ly thân, không còn liên lạc với nhau. Nên bà H yêu cầu ly hôn với ông T.

Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Trần Thanh L, sinh ngày 24 tháng 12 năm 2015. Hiện tại do bà H nuôi dưỡng, bà yêu cầu được quyền nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông T cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

- Tại phiên tòa hôm nay bị đơn ông Trần Văn T vắng mặt, tuy nhiên trong quá trình giải quyết ông T có ý kiến trình bày như sau: Về hôn nhân: ông và bà H chung sống và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 40/2015, quyển số 01/2015, ngày 04 tháng 5 năm 2015 của Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh A. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại Bình Dương, có xảy ra mâu thuẫn về tiền bạc, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017. Tuy nhiên ông không đồng ý ly hôn, do sợ con sau khi cha mẹ ly hôn sẽ khổ, thực tế ông cũng không còn tình cảm với bà H.

Về con chung: Có 01 (một) con chung tên Trần Thanh L, sinh ngày 24 tháng 12 năm 2015, hiện do bà H đang nuôi dưỡng, nếu giải quyết ly hôn ông yêu cầu được quyền nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: Không có. Ông xác định hiện nay đang sinh sống tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh A. Xin vắng mặt tham gia phiên hòa giải, xét xử tại Tòa án.

- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tịnh Biên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với người tham gia tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, bị đơn vắng mặt triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông T có đăng ký kết hôn, nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy về tình cảm giữa bà H và ông T không còn hạnh phúc, cả hai bỏ mặc không còn quan tâm, thể hiện từ năm 2017 thì bà H và ông T không còn sống chung với nhau. Như vậy, thấy rằng cuộc sống hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được.

Về con chung: có một con chung là cháu Trần Thanh L, sinh ngày 24 tháng 12 năm 2015. Xét về điều kiện thì bà H đang làm công nhân có thu nhập ổn định. Mặc khác, để đảm bảo điều kiện sinh hoạt, không làm thay đổi cuộc sống cần tiếp tục giao con chung cho bà H nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng bà H không yêu cầu, nên không xem xét.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: Không có.

 Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng theo quy định pháp luật.

- Tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập: Biên bản xác minh ngày 10 tháng 7 năm 2019 tại ấp T, xã T, huyện T; Biên bản xác minh ngày 25 tháng 7 năm 2019 tại ấp T1, xã T1, huyện T1.

Tại phiên tòa hôm nay, ông T vắng mặt. Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Cẩm H vẫn giữ nguyên yêu cầu và không cung cấp tài liệu chứng cứ gì thêm cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Bị đơn ông Trần Văn T đã được Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên triệu tập hợp lệ có mặt tại phiên tòa lần thứ hai, có yêu cầu xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án.

- Về thẩm quyền giải quyết: Theo biên bản xác minh ngày 25 tháng 7 năm 2019 bị đơn ông Trần Văn T có hộ khẩu thường trú tại tổ 1, ấp Tân Định, xã T, huyện T, tỉnh A. Tuy nhiên, tại biên bản xác minh ngày 10 tháng 7 năm 2019 của ban ấp Tân Định, xã Tân Lập thì ông Trần Văn T tạm trú tại ấp T, xã T, huyện T từ năm 2011 đến nay. Như vậy, theo quy định tại điều 12 Luật cư trú sửa đổi bổ sung 2013 thì nơi cư trú là nơi thường trú hoặc tạm trú, từ năm 2011 đến nay ông T đã tạm trú tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh A.

Do đó, Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên thụ lý, giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về hôn nhân: Bà H và ông T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 40/2015, quyển số 01/2015, ngày 04 tháng 5 năm 2015 của Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh A theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, nên đây là hôn nhân hợp pháp theo pháp luật. Xét thấy về tình cảm bà H và ông T không còn hạnh phúc, theo lời khai của hai bên đều xác định từ năm 2017 đã sống ly thân với nhau, không còn tình cảm. Như vậy, thấy rằng cuộc sống hôn nhân giữa bà H và ông T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt, nên Hội đồng xét xử thấy rằng bà Nguyễn Thị Cẩm H xin ly hôn là có căn cứ.

Về con chung: Có một con chung tên Trần Thanh L, sinh ngày 24 tháng 12 năm 2015. Bà H và ông T đều có nguyện vọng được quyền nuôi con chung sau khi ly hôn. Xét về yêu cầu thấy rằng, từ sau khi không còn chung sống, con chung đều do bà H nuôi dưỡng, bà H đang làm công nhân tại Bình Dương thu nhập ổn định. Mặc khác, để đảm bảo điều kiện sinh hoạt, không làm thay đổi cuộc sống cần tiếp tục giao con chung cho bà H nuôi dưỡng. Do đó, cần giao con chung cho bà H nuôi dưỡng là phù hợp quy định pháp luật tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H không yêu cầu, nên không xem xét.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Do đó, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị là có cơ sở.

 [3] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Cẩm H khởi kiện xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự hôn nhân sơ thẩm theo mức không giá ngạch. Ông Trần Văn T không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 51, khoản 1 Điều 56 và Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Cẩm H.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Cẩm H và ông Trần Văn T.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung Trần Thanh L, sinh ngày 24 tháng 12 năm 2015 cho bà Nguyễn Thị Cẩm H trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Ông Trần Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Nguyễn Thị Cẩm H cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông Trần Văn T quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con chưa thành niên, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân tổ chức có thẩm quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người nuôi con.

3. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết 4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Cẩm H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí, được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: TU/2016/0014615 ngày 11 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tịnh Biên. Bà H đã nộp xong.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Giấy chứng nhận kết hôn số 40/2015, quyển số 01/2015, ngày 04 tháng 5 năm 2015 của Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh A không còn giá trị pháp lý.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:31/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về