Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 07/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 31/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 07 tháng 11 năm 2019, tại Hội trường Toà án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 140/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2019/QĐXX-ST ngày 14 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M - Sinh năm 1981

Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa

2. Bị đơn: Anh Hoàng Văn Ch - Sinh năm 1974

Địa chỉ: Thôn 3, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hoá

Tại phiên toà có mặt chị M, vắng mặt anh Ch.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 16/6/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị M trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Hoàng Văn Ch kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có tổ chức cưới và được UBND xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 22/01/2010. Sau khi cưới vợ chồng sống chung sống hạnh phúc tại thôn Ngọc Sơn, xã Hà Sơn, huyện Hà Trung đến tháng 3 năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi chửi nhau, cuộc sống vợ chồng căng thẳng. Từ tháng 3/2011 anh Ch bỏ về nhà anh trai là anh Hoàng Văn Ngọc, địa chỉ thôn 3, xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung sinh sống sau anh đi làm ăn đến tết năm 2012 anh về, vợ chồng chị sống ly thân từ đó cho đến nay và không quan tâm đến nhau. Từ tháng 03/2011 anh Ch đi làm ăn nhưng vẫn thường xuyên về nhà anh Ngọc. Sau khi nộp đơn khởi kiện tại toà chị đã giao các tài liệu trong hồ sơ cho anh Ch vào ngày 30/7/2019, đến ngày 09/8/2019 anh Ch có mang tập tài liệu trả cho chị và nói chị tự giải quyết anh không quan tâm. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin được ly hôn anh Ch.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Hoàng Thị Mai Tr - Sinh ngày: 27/02/2011. Hiện nay cháu khỏe mạnh bình thường và đang ở với chị. Ly hôn nguyện vọng của chị là được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tr và không yêu cầu anh Ch cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Hiện nay chị làm công nhân với mức lương khoảng 5.000.000 đồng/tháng.

- Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Sau khi Toà án thụ lý vụ án, Toà án nhân dân huyện Hà Trung đã triệu tập anh Ch và đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng liên quan theo đúng quy định đối với anh Hoàng Văn Ch nhưng anh Ch không đến làm việc nên không có lời khai để thể hiện nguyện vọng của anh.

* Theo anh Hoàng Văn Ng là anh trai của anh Hoàng Văn Ch cho biết:

Sau khi anh Ch và chị M kết hôn, ở với gia đình anh Ngọc một thời gian ngắn thì chuyển sang nhà vợ ở xã Hà Sơn sinh sống. Từ đầu năm 2011 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, anh Ch đã tự bỏ đi khỏi nhà vợ, chị M anh Ch đã sống ly thân nhau từ đầu năm 2011 đến nay, không ai quan tâm ai. Từ đầu năm 2011 sau khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn anh Ch đã từ xã Hà Sơn về xã Hà Lĩnh và sinh sống tại với gia đình anh. Hiện nay anh Ch đi làm ăn ở đâu anh và gia đình không biết, anh Ch cứ đi rồi về rồi lại đi. Sau khi Toà án thụ lý vụ án, Toà án có giao thông báo thụ ly vụ án đến nhà anh, nhưng vì anh em đang giận nhau nên anh không nhận thay. Sau đó ông Hoàng Huy Hợi là thôn trưởng thôn 3, xã Hà Lĩnh có đến giao thông báo thụ lý cho anh Ch và anh Ch không đến làm việc tại Toà án. Vợ chồng anh Ch chị M có 01 con chung là cháu Hoàng Thị Mai Tr, sinh năm 2011. Từ khi anh Ch bỏ về Hà Lĩnh đến nay, cháu vẫn ở với mẹ. Nay chị M làm đơn xin ly hôn với anh Ch, quan điểm của anh là đề nghị Toà án giải quyết theo quy định pháp luật, anh Ch không ở cố định một nơi, nghề nghiệp không biết hiện nay làm gì. Trong quá trình chung sống anh Ch, chị M ở với gia đình anh rất ngắn nên không có tài sản gì.

* Theo quan điểm của chính quyền xã H cho biết:

Chị M và anh Ch kết hôn năm 2010 tại UBND xã Hà Sơn, sau khi kết hôn chị M và anh Ch chung sống với nhau được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Đến đầu năm 2011 anh Ch đã bỏ về nhà ở xã Hà Lĩnh, từ đó đến nay vợ chồng sống ly thân và không quan tâm đến nhau. Nguyên nhân vợ chồng phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau về tính cách, anh Ch không chịu làm ăn chỉ chơi bời, thường xuyên cãi chửi nhau. Đã có lần vào khoảng cuối năm 2010 anh Ch còn lấy đất đá ném vào nhà ở thôn Ngọc Sơn, xã Hà Sơn của gia đình chị M và đánh chị M. Sự việc đã được Công an thôn và làng xóm đến can ngăn kịp thời. Vợ chồng anh chị có 01 con chung là cháu Hoàng Thị Mai Tr, sinh năm 2011, từ khi anh Ch bỏ đi đến nay cháu ở với mẹ. Thời gian chung sống anh Ch không làm thủ tục đăng ký tạm trú tại địa phương. Từ năm 2011 đến nay không thấy anh Ch về thăm vợ con, hiện nay chị M vẫn ở địa phương làm ăn sinh sống. Do vợ chồng thời gian chung sống không hoà hợp, thường xuyên cãi chửi nhau và đánh nhau, hơn nữa thời gian ly thân của vợ chống kéo dài từ năm 2011 đến nay, nên đề nghị Toà án giải quyết cho chị M và anh Ch được ly hôn.

* Theo quan điểm của chính quyền xã Hà Lĩnh cho biết:

Sau khi kết hôn chị M và anh Ch ở thôn 3, xã Hà Lĩnh được vài ngày thì sang nhà ngoại ở thôn Ngọc Sơn, xã Hà Sơn, huyện Hà Trung sinh sống. anh Ch và chị M đã sống ly thân một thời gian dài khoảng 8 năm nay. Từ khi vợ chồng ly thân chị M ở nhà bố mẹ đẻ sinh sống, còn anh Ch hiện tại vẫn có khẩu và sinh sống tại thôn 3, xã Hà Lĩnh. Anh Ch không chuyển khẩu và không khai báo tạm trú, tạm vắng đi nơi khác. Anh đi làm ở đâu địa phương không biết mà cứ đi thời gian lại về, về rồi lại đi. Anh Ch và gia đình anh trai có mâu thuẫn với nhau nên khi Toà án giao văn bản giấy tờ anh Hoàng Văn Ngọc là anh trai không nhận thay. Địa phương đã đồng ý nhận thay các giấy tờ văn bản và đã trực tiếp giao lại cho anh Ch. Anh Ch đã nhận giấy tờ và anh có thông báo là anh bận đi làm nên không đến Toà làm việc được, đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật. Công an địa phương cũng chứng kiến việc giao các giấy tờ cho anh Ngọc là anh trai anh Ch nhưng anh Ngọc từ chối ký nhận văn bản. Theo địa phương vợ chồng anh Ch đã mâu thuẫn từ lâu, sống ly thân khoảng 8 năm nay. Do vậy tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ nên cần cho ly hôn. Vợ chồng anh chị có 01 con chung là cháu Hoàng Thị Mai Tr, sinh năm 2011, do cháu còn nhỏ, lâu nay vẫn ở với chị M, nên để cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng sẽ tốt hơn.

Do chị M có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 4 Điều 207 BLTTDS.

Tại phiên Toà, Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn của chị M, xử cho chị M được ly hôn anh Ch, về con chung giao cháu Hoàng Thị Mai Tr cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ch không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị M. Chị M phải chịu án phí DSST.

Tại phiên tòa hôm nay chị M giữ nguyên toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên không thỏa thuận với nhau về giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Hoàng Văn Ch không có mặt tại phiên toà, Toà án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng thủ tục và phiên toà cũng được hoãn lần thứ nhất. Do vậy căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 BLTTDS xét xử vắng mặt anh Ch.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị M và anh Hoàng Văn Ch kết hôn năm 2010 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp.Theo chị M vợ chồng chung sống đến tháng 3 năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi chửi đánh nhau và từ tháng 3/2011 đến nay vợ chồng chị sống ly thân nhau không quan tâm đến nhau.

Đối với anh Hoàng Văn Ch dù biết chị M có đơn xin ly hôn, anh Ch đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản nhưng anh Ch vắng mặt tại Tòa án và không có ý kiến trình bày quan điểm, nguyện vọng của mình về tình trạng hôn nhân, chứng tỏ anh Ch không còn thiết tha níu kéo tình cảm vợ chồng. Ngoài ra theo anh Hoàng Văn Ngọc là anh trai anh Ch và chính quyền địa phương xã Hà Sơn, xã Hà Lĩnh cho biết vợ chồng anh Ch sau khi kết hôn chung sống hạnh phúc được một thời gian đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn. Từ đầu năm 2011 anh Ch đã tự bỏ đi khỏi nhà vợ, vợ chồng chị M anh Ch đã sống ly thân từ đầu năm 2011 đến nay, không ai quan tâm ai.

Xét thấy, nguyện vọng xin được ly hôn của chị M là có cơ sở, mâu thuẫn vợ chồng của anh chị đã trầm trọng, kéo dài trong nhiều năm, anh chị đã có thời gian dài sống ly thân và không ai quan tâm đến ai. Theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng cuộc sống, hạnh phúc gia đình, nhưng ở đây chị M đã thực sự không còn tình cảm với anh Ch và anh Ch bỏ mặc việc giải quyết vụ án không thiết tha níu kéo tình cảm vợ chồng. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó cải thiện được. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị M và căn cứ Điều 56 Luật HN&GĐ xử cho chị M được ly hôn anh Ch là phù hợp.

[3] Về con: Vợ chồng có 01 con chung là cháu: Hoàng Thị Mai Tr, sinh ngày 27/02/2011. Ly hôn chị M đề nghị được nuôi con. Chị M đã xuất trình trích lục giấy khai sinh của cháu Tr và có ghi tên mẹ là Nguyễn Thị M và bố là Hoàng Văn Ch. Như vậy đủ cơ sở khẳng định cháu Tr là con chung của chị M và anh Ch. Xét thấy nguyện vọng được nuôi con của chị là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Từ khi vợ chồng sống ly thân anh không quan tâm chăm sóc con, chị M vẫn chăm sóc nuôi dưỡng cháu tốt. Theo anh Ngọc là anh trai anh Ch nếu vợ chồng ly hôn thì giao con cho chị M nuôi là tốt nhất vì anh Ch không có nơi ở cố định và làm nghề gì không biết. Ngoài ra cháu Tr cũng có nguyện vọng được ở với mẹ và là con gái nên cần sự chăm sóc của mẹ. Do vậy cần áp dụng Điều 81 và 82 Luật HN&GĐ giao cháu Tr cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dương nuôi con: Do chị M không yêu cầu anh Ch cấp dưỡng tiền nuôi con chung, mức thu nhập của chị cũng đủ để nuôi dưỡng con và không yêu cầu Toà án giải quyết. Nên Hội đồng xét xử không buộc anh Ch phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị M.

[4] Về tài sản: Chị M không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị M là nguyên đơn trong vụ án nên buộc chị M phải chịu án phí dân sự hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí Tòa án.

[1]. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị M và anh Hoàng Văn Ch.

[2]. Về nuôi con chung: Công nhận vợ chồng có 01 con chung là cháu: Hoàng Thị Mai Tr - Sinh ngày 27 tháng 02 năm 2011.

2.1. Giao con chung Hoàng Thị Mai Tr cho chị Nguyễn Thị M trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Anh Hoàng Văn Ch không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Nguyễn Thị M.

2.3. Anh Ch có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[3]. Về chia tài sản: Chị Nguyễn Thị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị M phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0000491 ngày 30/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Chị M đã nộp đủ.

Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6; 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[5]. Về quyền kháng cáo: Chị M và anh Ch có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày. Đối với chị M kể từ ngày tuyên án; đối với anh Ch kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 07/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:31/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về