Bản án 31/2019/DS-ST ngày 06/03/2019 về tranh chấp hụi

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 31/2019/DS-ST NGÀY 06/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 06 tháng 3 năm 2019, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 311/2018/TLST-DS ngày 06 tháng 11 năm 2018 về việc “Tranh chấp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2019/QĐXXST-DS ngày 23 tháng 01 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đoàn Â, sinh năm 1973.

Địa chỉ: ấp 4, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre (Có mặt).

- Bị đơn: Bà Bùi Thị C, sinh năm 1977.

Địa chỉ: ấp 4, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đặng Hoàng M, sinh năm 1974.

Địa chỉ: ấp 4, xã T, huyện G, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 02/11/2018, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn là bà Đoàn  trình bày:

Vào năm 2015 bà có tham gia chơi hụi do bà Bùi Thị C làm chủ, bà đã đóng hụi cho bà C với số tiền là 10.000.000 đồng, gồm các dây hụi cụ thể như sau:

- Dây thứ nhất: Hụi 2.000.000đ, mở ngày 25/8/2015 gồm 25 phần, bà tham gia 03 phần, đóng được 22 lần với số tiền là 76.100.000đ.

- Dây thứ hai: Hụi 3.000.000đ, mở ngày 10/3/2017 gồm 24 phần, bà tham gia 1 phần, đóng được 4 lần với số tiền là 6.410.000đ.

Đến ngày 19/9/2017, bà C quay về có đến gặp bà và các hụi viên khác để tổng kết số tiền hụi còn nợ và hứa sau khi bán đất sẽ trả tiền cho bà. Ngày 19/8/2018, tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã T, huyện G, bà C đã làm “Tờ thỏa thuận”với nội dung bà Bùi Thị C còn nợ của bà Đoàn  số tiền hụi là 10.000.000đ. Nhưng từ khi làm tờ thỏa thuận đến nay bà C vẫn không trả cho bà tiền nợ hụi. Do đó, bà khởi kiện yêu cầu bà C cùng chồng là ông Đặng Hoàng M, các con gồm Đặng Thị Diệp T, Đặng Thị Ngọc Th có nghĩa vụ liên đới trả cho bà số tiền hụi. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà thay đổi yêu cầu khởi kiện, bà chỉ yêu cầu bà C và chồng là ông Đặng Hoàng M trả số tiền là 10.000.000đ, không yêu cầu tính lãi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn bà Bùi Thị C, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đặng Hoàng M đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên căn cứ vào khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án được xét xử vắng mặt bà C, ông M.

[2] Về nội dung: Xét thấy giữa bà Đoàn  và bà C tham gia chơi hụi với nhau dưới hình thức thỏa thuận miệng, không làm hợp đồng hay giấy tờ rõ ràng. Tuy nhiên, sau khi tuyên bố bể hụi thì giữa bà Đoàn  và bà C đã làm “Tờ thỏa thuận” đề ngày 19/8/2018 có nội dung rõ ràng là bà C còn nợ tiền hụi của bà Đoàn  là 10.000.000đ, văn bản thỏa thuận này được lập tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện G và có xác nhận của chính quyền địa phương. Từ sau khi làm tờ thỏa thuận đến nay bà C không trả tiền nợ hụi nên bà Đoàn  có quyền khởi kiện đối với bà C.

[3] Từ khi thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà C vẫn vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bà C. Do đó, căn cứ vào Điều 471 Bộ luật Dân sự có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đoàn Â, buộc bà C phải có nghĩa vụ trả số tiền hụi còn nợ là 10.000.000đ.

[4] Trong vụ án này, mặc dù ông Đặng Hoàng M là chồng của bà C không trực tiếp tham gia hụi nhưng bà C đã tổ chức chơi hụi tại nhà, thời gian chơi hụi kéo dài nhiều năm. Thời điểm này ông M vẫn làm ăn, sinh sống tại địa phương, ông M và bà C vẫn là vợ chồng hợp pháp, cùng lao động, sản xuất để chăm lo phát triển kinh tế gia đình. Hơn nữa, hôn nhân của bà C và ông M đang tồn tại và được pháp luật thừa nhận. Tại Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định: “Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện”. Do đó, ông M phải có nghĩa vụ liên đới cùng bà C trả số tiền hụi còn nợ cho bà Đoàn Â.

[5] Về lãi suất: Do bà Đoàn  không yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà C và ông M phải có nghĩa vụ liên đới chịu theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án là: 10.000.000 đồng x 5% = 500.000 đồng.

- Bà Đoàn  không phải chịu án phí nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 288, 471 của Bộ luật Dân sự, Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình, Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đoàn Â. Buộc bị đơn bà Bùi Thị C và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đặng Hoàng M phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Đoàn  số tiền là 10.000.000 (Mười triệu) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc bà Bùi Thị C và ông Đặng Hoàng M phải có nghĩa vụ liên đới chịu là 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng.

Bà Đoàn  không phải chịu án phí nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0021303 ngày 06/11/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt có quyền kháng cáo. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở Uỷ ban nhân dân nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

377
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/DS-ST ngày 06/03/2019 về tranh chấp hụi

Số hiệu:31/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về