Bản án 31/2018/HS-ST ngày 28/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 31/2018/HS-ST NGÀY 28/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 3 năm 2018; tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 25/2018/TLST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2018/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2018; Quyết định thay đổi Hội thẩm nhân dân số 09/2018/QĐ-TA ngày 26/3/2018, đối với các bị cáo:

1. Khương Thanh T, sinh năm: 1985 tại Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi cư trú: Khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Khương Thanh Tuấn, sinh năm: 1964 và bà Lê Thị Ngọc Lan, sinh năm: 1964.

Tiền án: Bản án số 162/2014/HSST ngày 06/8/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xử phạt Khương Thanh T 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 28/4/2014. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/8/2016.

Tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 17/11/2017 (có mặt).

2. Nguyễn Hữu P (tên gọi khác: Nghĩa), sinh năm: 1987 tại Bà Rịa – Vũng Tàu; Nơi cư trú: Khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Huỳnh (đã chết) và bà Lê Thị Bạch Lan, sinh năm: 1959.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt ngày 11/01/2018 (có mặt).

- Bị hại:

1/ Bà Phạm Thị M, sinh năm: 1975 (vắng mặt).

2/ Ông Trần Văn H, sinh năm: 1973 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ 8 ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

- Người làm chứng: Ông Võ Quốc T, sinh năm: 1969 (vắng mặt).

Nơi cư trú: khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài nên vào khoảng 14 giờ ngày 17/11/2017, Nguyễn Hữu P điều khiển xe mô tô biển số 72AL-014.55 chở Khương Thanh T đi từ thị trấn L qua khu vực xã P, huyện L tìm tài sản để trộm cắp. Khi đi ngang qua cửa hàng bán đồ điện máy “Nam Sài Gòn” tại tổ 8, ấp P, xã P, huyện L do chị Phạm Thị M làm chủ, T phát hiện phía trước cửa hàng có trưng bày 01 chiếc Loa di động hiệu Acnos, màu đen – cam, không người trông coi nên cả hai quyết định lấy trộm chiếc loa trên. Lúc này, P chở T chạy đến dừng xe trước cửa hàng, còn T bước xuống nhanh chóng đi đến dùng tay khiêng chiếc loa để lên xe rồi P chở T chạy đi. Sau đó, P chở T đem chiếc loa trên đến cửa hàng bán đồ điện máy “Nam Sài Gòn” tại thị trấn L, huyện L do anh Trần Văn H (là chồng chị M) làm chủ để bán nhưng anh H không thu mua. Khi đó, anh H phát hiện chiếc loa trên giống chiếc loa ở cửa hàng “Nam Sài Gòn” do chị M vợ anh H trưng bày để bán nên sau khi T và P chở chiếc loa đi anh H liền gọi điện thoại cho chị M thì được biết chiếc loa trên của cửa hàng vừa bị mất. Anh H liền điều khiển xe mô tô rượt đuổi theo phát hiện T và P chở chiếc loa đến tiệm cầm đồ “Bích Liên” do anh Võ Quốc T làm chủ tại thị trấn L, huyện L để cầm. Ngay lúc này, anh H đến công an thị trấn Long Hải trình báo sự việc và khi T và P đem chiếc loa từ tiệm cầm đồ ra định chở đi thì bị lực lượng công an thị trấn Long Hải bắt giữ được T cùng chiếc loa, riêng P điều khiển xe mô tô chạy thoát được.

Ngày 11/01/2018, cơ quan điều tra đã làm việc được với P. Tại cơ quan điều tra, T và P đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên. (Bút lục số: 59-64, 69-78).

Vật chứng vụ án thu giữ và xử lý: 01 chiếc loa di động hiệu Acnos, màu đen – cam, cao 70cm, ngang 40cm, rộng 30cm. Hiện đã trao trả lại cho anh Trần Văn Hưng là chủ sở hữu. (Bút lục số: 39-41).

Đối với chiếc xe mô tô biển số 72AL-014.55 do P mượn của bà Lê Thị Bạch Lan (mẹ ruột của P), bà Lan không biết P dùng xe mô tô trên để đi trộm cắp tài sản của người khác. Hiện nay bà Lan đã mang xe mô tô đi cầm và không xác định được ở đâu.

Tại biên bản định giá và kết luận định giá tài sản ngày 08/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản UBND huyện Long Điền kết luận: Một loa di động hiệu Acnos, màu đen – cam, cao 70cm, ngang 40cm, rộng 30cm, trị giá 3.980.500đ. (Bút lục số: 43-44).

Về trách nhiệm dân sự: anh Trần Văn H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số 27/CT-VKSLĐ ngày 26/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền đã truy tố bị cáo Khương Thanh T, Nguyễn Hữu P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố sau khi tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm khoản 1 Điều 138; điểm s, h khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, 58 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Khương Thanh T từ 08 đến 10 tháng tù. Áp dụng điểm khoản 1 Điều 138; điểm s, h, i khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38, 58 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu P từ 06 đến 08 tháng tù.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo thành khẩn khai báo, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố; không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Long Điền, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với chính lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 14 giờ ngày 17/11/2017, Khương Thanh T và Nguyễn Hữu P đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc loa di động hiệu Acnos, trị giá 3.980.500đ của vợ chồng anh Trần Văn H và chị Phạm Thị M tại cửa hàng bán đồ điện máy “Nam Sài Gòn” thuộc tổ 8, ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999.

[3] Xét thấy, các bị cáo có sức khỏe, có khả năng lao động nhưng không chịu làm ăn lương thiện, lười lao động lại muốn hưởng thụ nhanh bằng thành quả, tài sản của người khác. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Các bị cáo cùng đồng phạm với nhau, có sự bàn bạc, thống nhất từ trước nhưng tính chất đồng phạm chỉ là giản đơn. Bị cáo T từng bị xử phạt 03 năm tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy, cần tuyên một mức án tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của các bị cáo để giáo dục riêng, đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra, xét xử vụ án, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại về mặt tài sản nên xem xét áp dụng điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho các bị cáo. Bị cáo P phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên xem xét áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo P.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Không.

[5] Về xử lý vật chứng: Không.

[6] Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Khương Thanh T, Nguyễn Hữu P phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999; điểm s, h khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt: Khương Thanh T 08 (tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/11/2017.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999; điểm s, h, i khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt: Nguyễn Hữu P (N) 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/01/2018.

Về trách nhiệm dân sự: Không.

Về xử lý vật chứng: Không.

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Khương Thanh T, Nguyễn Hữu P mỗi người phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hinh sư sơ thâm.

Trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (28/3/2018) các bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn trên tính từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HS-ST ngày 28/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:31/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về