Bản án 31/2018/HS-ST ngày 18/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 31/2018/HS-ST NGÀY 18/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 7 năm 2018, tại Hội trường Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 25/2018/TLST-HS ngày 03 tháng 5 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2018/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2018, đối với bị cáo:Dương Chí L, sinh ngày 24 tháng 12  năm 1978

ĐKHKTT và nơi ở: Xóm Đ, xã NM, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa 7/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Dương Văn Q, sinh năm 1944 và bà Nguyễn Thị L1, sinh năm 1945; Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ năm; Có vợ là: Nguyễn Thị H, sinh năm 1980 và có 03 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2010; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/11/2017 đến nay (có mặt tại phiên tòa).

* Người bào chữa cho bị cáo do Tòa án yêu cầu đoàn luật sư cử: Ông Nguyễn Công Q, luật sư văn phòng luật sư An Toàn, đoàn luật sư tỉnh Thái Nguyên (có mặt).

* Người liên quan: Ông Nguyễn Đình H1, sinh năm 1972 (vắng mặt) Trú tại: Xóm NS, xã ĐT, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Văn A, sinh năm 1987 (vắng mặt)

Trú tại: Xóm TP, xã ĐT, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên.

2. Anh Hà Mạnh C, sinh năm 1984 (vắng mặt)

Trú tại: Xóm Ch 1, xã NL, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên.

* Người làm chứng:

1. Ông Dương Đình C, sinh năm 1962 (vắng mặt)

Trú tại: Tổ dân phố US, thị trấn HS, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên.

2. Anh Nguyễn Thế A1, sinh năm 1987 (vắng mặt)

Trú tại : Xóm ĐC, xã TH1, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa. Nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21h30 ngày 19/11/2017, tổ công tác Công an huyện PB làm nhiệm vụ mtại khu vực xóm N 2, xã UK, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên, phát hiện 02 nam thanh niên đang đứng cạnh xe ô tô BKS 20A- 161.66 có biểu hiện nghi liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra, khi thấy tổ công tác thì một người bỏ chạy còn một người bị bắt giữ tự khai tên là Dương Chí L, sinh năm 1978, trú tại xóm Đ, xã NM, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên. Qua kiểm tra phát hiện và thu giữ tại túi quần phía sau bên phải của L đang mặc 03 gói nilon mầu trắng, bên trong đều có chứa chất bột mầu trắng (L khai là Hêrôin); 01 ví giả da màu đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO; 1.100.000đ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tổ công tác tiến hành niêm phong 03 gói chất bột mầu trắng nghi ma túy (Bì niêm phong ký hiệu A), chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO (bì niêm phong ký hiệu B), tạm giữ 01 xe ô tô nhãn hiệu KIA loại xe RIO biển kiểm soát 20A- 161.66 L đang sử dụng, đồng thời lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang đối với Dương Chí L.

Hồi 22h40 cùng ngày, khám xét khẩn cấp nhà ở, đồ vật của Dương Chí L tại xóm Đ, xã NM, huyện PB không thu giữ được gì liên quan.

Ngày 20/11/2017 tiến hành mở niêm phong cân xác định khối lượng và lấy mẫu gửi giám định, đối với số chất bột mầu trắng nghi ma túy thu giữ của Dương Chí L khi bắt quả tang có tổng khối lượng là 74,836 gam, trộn đều và lấy 2,595 gam làm mẫu gửi giám định (ký hiệu bì A1), số còn lại được niêm phong lưu kho.

Ngày 08/2/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong kiểm tra chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO có các số thuê bao 0977.746.131 và 0962.507.333 đã thu giữ của L không có các dữ liệu liên quan đến việc H1 nhờ L mua hộ Hêrôin như L khai trước đó.

Bản kết luận giám định số 42/KL-PC54 ngày 27/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên xác định: Chất bột dạng cục mầu trắng thu giữ của Dương Chí L là chất ma túy, loại Hêrôin. Tổng trọng lượng (khối lượng) thu giữ ban đầu là 74,836 gam.

Tại cơ quan điều tra Công an huyện PB ban đầu L khai: Bản thân L không nghiện ma túy, ngày 19/11/2017 L mượn xe ô tô Biển kiểm soát 20A- 161.66 của anh Hà Mạnh C, sinh năm 1984, trú tại xóm Ch 1, xã NL, huyện PB – là bạn của L đi lên đền KN thuộc xã LS, huyện ĐH làm lễ và ăn cơm tại đền; Khoảng 15 giờ cùng ngày thì có Nguyễn Đình H1, sinh năm 1972, trú tại xóm NS, xã ĐT, huyện PB là anh rể của L gọi điện thoại cho L nhờ mua hộ 02 cây ma túy loại Hêrôin, L đồng ý. Sau khi về đến khu vực đầu cầu Gia Bẩy, thành phố Thái Nguyên L gặp T2 là người quen của L (L không biết họ, tên đệm và địa chỉ cụ thể của T2) và hỏi mua 02 cây Hêrôin, T2 nói có và bán với giá 24.000.000đ/cây. L đưa cho T2 48.000.000đ T2 nói chiều tối sẽ mang Hêrôin xuống PB cho L. Khoảng 17 giờ cùng ngày T2 đã mang Hêrôin xuống khu vực Trường mầm non xã Úc Kỳ thuộc xóm Nam 2, xã Úc Kỳ, huyện PB để giao cho L như đã thỏa thuận, khi L ra thì T2 chỉ chỗ giấu số Hêrôin cho L biết rồi đi về Thái Nguyên. L vẫn cất giấu số Hêrôin tại đó rồi đi về nhà.

Khoảng 21 giờ cùng ngày thì H1 gọi điện cho L hỏi đã mua được Hêrôin cho H1 chưa, L nói là đã mua được và hẹn H1 ra khu vực Trường mầm non xã Úc Kỳ thuộc xóm Nam 2, xã Úc Kỳ, huyện PB để giao cho H1, khi chưa kịp giao nhận Hêrôin thì bị tổ công tác của Công an huyện PB phát hiện bắt quả tang. H1 bỏ chạy thoát và chưa trả tiền cho L.

Quá trình điều tra, tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên Dương Chí L thay đổi lời khai và khai nhận: Do bị bệnh viêm xoang và nghe mọi người nói là dùng Hêrôin có thể chữa khỏi, ngày 19/11/2017 khi gặp T2 tại khu vực đầu cầu Gia Bẩy, thành phố Thái Nguyên thì L đã nẩy sinh ý định mua Hêrôin về để chữa bệnh, liền đó L đã trực tiếp hỏi và mua của T2 02 cây Hêrôin hết 48.000.000đ, trên đường mang ma túy về nhà thì bị bắt giữ cùng toàn bộ số Hêrôin vừa mua được; Việc trước đây L khai mua Hêrôin hộ H1 là do sợ và nhằm để chối tội, số tiền mua Hêrôin L khai là tiền của L do lao động tích góp mà có.

Về chiếc xe ô tô Biển kiểm soát 20A- 161.66 L sử dụng để đi mua Hêrôin ngày 19/11/2017, qua điều tra xác định chủ sở hữu là anh Nguyễn Văn A, sinh năm 1984, trú tại xóm BL, xã TĐ, huyện PB, A thế chấp cho Hà Mạnh C từ ngày 01/10/2017 để vay 180.000.000đ, việc C cho L mượn để đi mua Hêrôin ngày 19/11/2017 C và anh A không được biết. Ngày 29/01/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên đã trả lại cho anh Nguyễn Văn A quản lý sử dụng.

Bản cáo trạng số 14/CT-VKS-P1 ngày 02 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Dương Chí L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 3 Điều 194 của Bộ luật Hình sự 1999.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Dương Chí L khai nhận do bị cáo bị viêm xoang, chữa trị lâu ngày không khỏi nghe anh em bạn bè nói Hêrôin chữa được nên sau khi đi làm lễ ăn cỗ xong bị cáo đã qua khu vực cầu Gia Bẩy mua của người tên T2 48.000.000đ Hêrôin, trên đường mang về sử dụng thì bị bắt.

Phần luận tội tại phiên tòa hôm nay Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích đánh giá tính chất vụ án, nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đề nghị Hội đồng xét xử Tuyên bố: Bị cáo Dương Chí L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy . Áp dụng điểm b khoản 3 và khoản 5 Điều 194; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và khoản 3 Điều 7; điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Dương Chí L từ 10 (mười) năm tù đến 11(mười một) năm tù; Phạt bổ sung bị cáo Dương Chí L từ 5.000.000đ đến

7.000.000đ; Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A2, 01 bì niêm phong ký hiệu A1, bên trong có chứa ma túy loại Hêrôin; 01 ví giả da mầu đen đã cũ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ mầu vàng, có 02 số thuê bao 0962.507.333 và 0977.746.131, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

- Tạm giữ 1.100.000đ tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam; Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì Luật sư bào chữa cho bị cáo: Số Hêrôin bị thu giữ ngay chưa gây hậu quả. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn, ăn năn hối cải khai nhận hành vi phạm tội của mình, trong thời gian bị tam giam bị cáo chấp hành tốt quy chế của trại, bị cáo L được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, bố bị cáo có thời gian tham gia quân ngũ chống Mỹ cứu nước tuy nhiên do thất lạc giấy tờ nhưng đã được chính quyền địa phương xác nhận, bị cáo được hưởng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự, do bị bệnh xoang đã lâu ngày chữa không được bị cáo mua ma túy mục đích để chữa bệnh không có ý định bán. Hoàn cảnh của bị cáo hiện nay khó khăn, vợ không có công việc ổn định, con còn nhỏ, đang ở độ tuổi ăn học. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 mở lượng khoan hồng xử phạt bị cáo mức hình phạt 10 năm tù cũng đạt được mục đích của hình phạt và thể hiện tính khoan hồng trong pháp luật.

Viện kiểm sát đối đáp: Tài liệu trong hồ sơ thể hiện xác nhận của Công an xã bố và mẹ bị cáo không có Huân, Huy chương nên không có căn cứ áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Viện kiểm sát đã xem xét toàn diện vụ án, nhân thân bị cáo đề nghị mức hình phạt từ 10 năm đến 11 năm là phù hợp.

Luật sư đối đáp: Ủy ban nhân dân xã có xác nhận bố bị cáo tham gia quân ngũ chống Mỹ cứu nước và được hưởng chế độ trợ cấp một lần.

Bị cáo Dương Chí L nhất trí với luận cứ và các ý kiến của luật sư. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay bị cáo Dương Chí L thừa nhận bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên truy tố đối với bị cáo là đúng không oan. Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo là khách quan phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng tại cơ quan điều tra, vật chứng thu giữ, kết luận của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Ngày 19/11/2017 Dương Chí L điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 20A- 161.66 từ nhà ở xã NM, huyện PB lên huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên, khi đến khu vực đầu cầu Gia Bẩy thuộc phường ĐB, thành phố Thái Nguyên L gặp và mua của một người tên là T2 74,836 gam ma túy loại Hêrôin hết 48.000.000đ mang về PB với mục đích để sử dụng chữa viêm xoang cho bản thân, khi về đến khu vực trường mầm non thuộc xóm N 2, xã UK, huyện PB thì bị tổ công tác của Công an huyện PB phát hiện bắt giữ.

Với hành vi trên bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Dương Chí L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật. Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

2...3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:

b) Hêrôin có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam .

Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung quy định Điều luật quy định một hình phạt nhẹ hơn và quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội trước khi điều luật có hiệu lực thi hành do đó khi áp dụng hình phạt cần xem xét theo hướng có lợi cho bị cáo.

Như vậy: Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, tương ứng với tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung, cụ thể: Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Người nào tàng trữ... trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy... thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2... 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

a).... b) Hêrôin có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam .

[3]Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền quản lý sử dụng chất ma tuý của Nhà nước, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác, gây mất trật tự trị an địa phương. Hành vi phạm tội của bị cáo phải xét xử nghiêm khắc buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian, để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung.

[4]Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay thành khẩn, ăn năn, hối cải khai nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo L được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, bố bị cáo có thời gian tham gia trong quân ngũ (kháng chiến chống Mỹ cứu nước). Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Khi lượng hình Hội đồng xét xử xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo tốt, sớm trở về với gia đình, xã hội làm người có ích, thể hiện tính khoan hồng trong pháp luật Nhà nước ta.

[5]Hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 phạt bị cáo một khoản tiền sung quỹ nhà nước;

[6]Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

* Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy thu giữ của bị cáo và những vật chứng không còn giá trị sử dụng.

Số tiền và chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo không liên quan đến việc mua bán ma túy cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Về nguồn gốc số ma túy là do L mua của một người nam giới tên là T2 ở khu vực đầu cầu Gia Bẩy thành phố Thái Nguyên, do L không biết họ, địa chỉ cụ thể của T2 nên cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ.

Chiếc xe ô tô BKS 20A- 161.66 bị cáo L sử dụng để đi mua ma túy, quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là của anh An thế chấp cho anh C để vay tiền, khi L mượn đi anh C không biết L sử dụng đi mua ma túy nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng pháp luật.

Như phân tích trên Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát về việc tiêu hủy chiếc điện thoại OPPO của bị cáo L, chấp nhận một phần đề nghị của luật sư.

Vì các lẽ trên Hội đồng xét xử sơ thẩm Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; (Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và khoản 3 Điều 7; điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015), xử phạt: Dương Chí L 11 (mười một) năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy , thời hạn tù tính từ ngày 19/11/2017.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tạm giam bị cáo Dương Chí L 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

* Hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, phạt bổ sung bị cáo Dương Chí L 5.000.000đ (năm triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

* Vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

* Tịch thu tiêu hủy: 01 niêm phong ký hiệu A2 trên mép dán có chữ ký, ghi họ tên của Dương Chí L, các thành phần tham gia niêm phong và 03 hình dấu tròn của cơ quan CSĐT- Công an huyện PB, tỉnh Thái Nguyên bên ngoài ghi có 72,241 gam chất bột màu trắng; 01 niêm phong ký hiệu A1 trên mép có chữ ký, ghi họ tên của thành phần tham gia niêm phong và 02 hình dấu tròn của Phòng PC 54 Công an tỉnh Thái Nguyên bên ngoài ghi có 2,561 gam Hêrôin làm mẫu hoàn lại sau giám định; 01 ví da màu đen đã qua sử dụng.

Tạm giữ để đảm bảo thi hành án số tiền 1.100.000đ (Một triệu một trăm ngàn đồng) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu vàng, IMEI 1: 861216035267699.

* Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí. Bị cáo Dương Chí L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước. Điều 26 Luật thi hành án Dân Sự quy định: Trường hợp bản án quyết định được thi hành án theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án Dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án Dân sự.Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án Dân sự .

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo,vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người vắng mặt kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HS-ST ngày 18/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về