Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 19/06/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 31/2018/HNGĐ-ST NGÀY 19/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 19 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 424/2017/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2017 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị K, sinh năm 1970; Địa chỉ: Ấp VT, xã VH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, có mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Thanh L, sinh năm 1967; Địa chỉ: Ấp VT, xã VH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 23 tháng 11 năm 2017 và các lời khai tại Tòa án nguyên đơn bà Lê Thị K trình bày.

Về quan hệ hôn nhân: Bà K và ông Trần Thanh L có tìm hiểu nhau, có tổ chức đám cưới và được cha mẹ hai bên đồng ý, ngày 22/11/2005 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên bất đồng quan điểm, nguyên nhân dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn là do ông L không quan tâm tới gia đình. Hiện nay, bà K và ông L đã sống ly thân. Nay, bà K xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, bà K yêu cầu Tòa án cho bà ly hôn với ông L.

Về con chung: Trong quá trình sống chung bà K và ông L có 03 con chung tên Trần Thị Hồng L1, sinh ngày 10/10/1998; Trần Thanh L2, sinh ngày 17/6/1990; Trần Minh Ph, sinh ngày 15/10/2005. Khi ly hôn bà K cho rằng con Trần Thị Hồng L1 và Trần Thanh L2 đã trưởng thành, riêng con Trần Minh Ph có nguyện vọng được ở với ông L thì đề nghị Tòa án giao con cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng, bà K không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ôngTrần Thanh L: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo về các phiên hòa giải và phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa. Tuy nhiên, bị đơn ông L vắng mặt không có lý do theo giấy triệu tập và thông báo của Tòa án, ông L cũng không cung cấp chứng cứ nào liên quan đến vụ án cho Tòa án, nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông L theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo phát biểu: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã áp dụng đầy đủ đúng quy định của pháp luật, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn đã được Tòa án triệu tập, niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn bà K yêu cầu được ly hôn với ông L, xét mâu thuẫn giữa bà K và ông L không thể hàn gắn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà K, về con chung xét cháu Trần Thị Hồng L1, sinh ngày 10/10/1998; Trần Thanh L2, sinh ngày 17/6/1990 đã trưởng thành nên Viện Kiểm sát không có ý kiến, riêng cháu Trần Minh Ph, sinh ngày 15/10/2005 đã trên 07 tuổi có nguyện vọng ở với ông L, đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Ph cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng, về tài sản chung và nợ chung do các đương sự không có yêu cầu nên Viện Kiểm sát không có ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà K yêu cầu ly hôn với ông L, hiện nay bà K và ông L có hộ khẩu thường trú tại xã VH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về sự vắng mặt của ông Trần Thanh L; trong quá trình giải quyết vụ án ông L đã được Tòa án triệu tập, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng, tuy nhiên ông L vắng mặt không có lý do và không cung cấp chứng cứ liên quan đến vụ án cho Tòa án nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông L theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử nhận thấy, bà K và ông L có tìm hiểu nhau, có tổ chức đám cưới và được cha mẹ hai bên đồng ý, ngày 22/11/2005 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã VH, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà K và ông L là hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên bất đồng quan điểm, nguyên nhân dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn là do ông L không quan tâm chăm lo cho gia đình. Ngày 07/02/2018, Tòa án tiến hành xác minh tại Ủy ban nhân dân xã VH thấy rằng, mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa bà K và ông L không báo nên chính quyền địa phương không biết, về vấn đề con chung đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Như vậy, do ông L vắng mặt không cung cấp chứng cứ để chứng minh bảo vệ quyền lợi cho mình, Hội đồng xét xử căn cứ trên các chứng cứ bà K giao nộp cho Tòa án, xét việc bà K yêu cầu được ly hôn với ông L là có căn cứ được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Trong quá trình sống chung bà K và ông L có 03 con chung tên Trần Thị Hồng L1, sinh ngày 10/10/1998; Trần Thanh L2, sinh ngày 17/6/1990; Trần Minh Ph, sinh ngày 15/10/2005. Xét thấy cháu Trần Thị Hồng L1 và Trần Thanh L2 đã trưởng thành, riêng cháu Trần Minh Ph, sinh ngày 15/10/2005 đã trên 07 tuổi có nguyện vọng ở với ông L nên Hội đồng xét xử giao con Trần Minh Ph cho ông L nuôi dưỡng, bà K không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không có yêu cầu, nên Tòa án không giải quyết.

Xét ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[3] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị K phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 2 Điều 244, Điều 264 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị K về việc ly hôn với ông Trần Thanh L.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị K được ly hôn với ông Trần Thanh L.

2. Về con chung:

Các con Trần Thị Hồng L1, sinh ngày 10/10/1998; Trần Thanh L2, sinh ngày 17/6/1990 đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Giao con Trần Minh Ph, sinh ngày 15/10/2005 cho ông Trần Thanh L trực tiếp nuôi dưỡng, bà K không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Trần Thanh L và bà Lê Thị K đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung, được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con chưa thành niên, khi có đơn yêu cầu, Tòa án sẽ giải quyết việc thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Do đương sự không có yêu cầu nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị K phải chịu số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo theo Biên lai thu số 0008349 ngày 30 tháng 11 năm 2017. Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 19/06/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:31/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về