Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN E, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 31/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Hôm nay ngày 15/11/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện E xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 92/2018/TLST-HNGĐ ngày 13/6/2018 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2018/QĐXX-ST ngày 02/10/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị A - Sinh năm 1992

Địa chỉ: Thôn C, xã D, huyện E, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Anh Trịnh Văn B - sinh năm 1989

Địa chỉ: Thôn C, xã D, huyện E, tỉnh Thanh hóa.

Tại phiên tòa vắng mặt chị A có lý do, vắng mặt anh B không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện vụ án ly hôn ngày 30/5/2018 và bản tự khai nguyên đơn chị Lê Thị A trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trịnh Văn B kết hôn với nhau ngày 14/5/2010, việc kết hôn là do chị và anh B tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã D, huyện E, tỉnh Thanh Hóa và đã được UBND xã cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận với nhau được thời gian khoảng 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân của mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp tính nhau, không có tiếng nói chung trong cuộc sống, ngoài ra anh B không chịu khó làm ăn, thường xuyên rượu chè về chửi bới, đánh đập chị; do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên vợ chồng sống ly thân nhau từ năm 2014 đến nay, không ai quan tâm và có trách nhiệm đến ai. Nay chị xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng giữa chị và anh B không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh B.

Về con chung: Chị và anh B có 01 con chung là Cháu Trịnh Ngọc F - Sinh ngày 17/5/2010. Khi chị và anh B ly hôn, chị đề nghị Tòa án giải quyết giao cháu cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị không yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Trịnh Văn B: Tòa án tiến hành các thủ tục tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập cho anh B, thông báo cho anh B ngày giờ đến Tòa án để lấy lời khai, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án, nhưng anh B không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập, nên Tòa án không lấy được lời khai của anh B, không hòa giải được vụ án và tại phiên tòa anh B cũng vắng mặt không có lý do. Hiện anh B đang có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại địa phương.

Tại biên bản thu thập chứng cứ tại nơi cư trú - Trưởng Thôn C, xã D cung cấp như sau: Anh Trịnh Văn B và chị Lê Thị A kết hôn với nhau vào năm 2010, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND xã D, huyện E. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được 04 năm, đến năm 2014 anh chị vào tỉnh Bình Dương làm ăn và bắt đầu phát sinh mâu thuẫn; việc mâu thuẫn của vợ chồng như thế nào địa phương không nắm được. Nay chị A có đơn xin ly hôn, quan điểm của địa phương: Đề nghị căn cứ theo pháp luật giải quyết. Về con chung: Anh chị có 01 con chung. Nếu trường hợp anh chị phải ly hôn, thì đề nghị Tòa án căn cứ vào thực tế để quyết định giao con cho ai nuôi đảm bảo được điều kiện về học tập, sinh hoạt của cháu, về tài sản, công nợ chung: Địa phương không nắm được.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Tất cả các giai đoạn từ khi thụ lý vụ án, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa được thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTDS năm 2015. Các đương sự thực hiện theo đúng quyền và nghĩa vụ quy định của BLTTDS năm 2015. Đề nghị HĐXX xem xét, đánh giá chứng cứ trên cơ sở quy định của pháp luật để đưa ra quyết định đúng đắn, chính xác, khách quan nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 51, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về hôn nhân: Xử cho chị A và anh B được ly hôn.

- Về con chung: Giao cháu Trịnh Ngọc F cho chị A nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa hôm nay Chị A, anh B đã được triệu tập hợp lệ lần 2, nhưng anh B vắng mặt không có lý do, chị A có đơn xin xét xử vắng mặt, nên căn cứ khoản 2 điều 227, Điều 228 BLTTDS năm 2015 Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn chị Lê Thị A, bị đơn anh Trịnh Văn B.

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị A và anh Trịnh Văn B kết hôn với nhau từ năm 2005, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp.

Chị A cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng do vợ chồng không hợp tính nhau, không có tiếng nói chung trong cuộc sống, ngoài ra anh B không chịu khó làm ăn, thường xuyên rượu chè về chửi bới, đánh đập chị; do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên vợ chồng sống ly thân nhau từ năm 2014 đến nay, không ai quan tâm và có trách nhiệm đến ai. Đối với anh B, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần và tại phiên tòa hôm nay anh B vẫn vắng mặt không có lý do, anh B thường xuyên vắng mặt tại gia đình nhưng thỉnh thoảng vẫn về thăm người thân, điều này thể hiện anh B có thái độ bỏ mặc gia đình vợ con và không có thiện chí đoàn tụ cùng chị A. Nay chị A yêu cầu được ly hôn anh B.

Xét tình cảm của anh chị thực tế không còn, mâu thuẫn không có khả năng hàn gắn được, điều này chứng tỏ mâu thuẫn của anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lê Thị A. Xử cho chị Lê Thị A được ly hôn với anh Trịnh Văn B là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Anh B, chị A có 01 con chung: Cháu Trịnh Ngọc F - sinh ngày 17/5/2010. Ly hôn, chị A có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu F và không yêu cầu anh B cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị; do anh B thường xuyên vắng mặt tại gia đình, nên việc giao con cho anh B không đảm bảo được điều kiện về mọi mặt của cháu. Như vậy việc giao cháu F cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, anh B không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung là phù hợp với thực tế và đảm bảo được điều kiện về mọi mặt của cháu. Sau này anh B có nguyện vọng nuôi con thì anh sẽ yêu cầu bằng một vụ kiện dân sự khác.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên miễn xét.

[5] Về án phí: Chị A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị A được ly hôn với anh Trịnh Văn B.

2. Về con chung: Anh B, chị A có 01 con chung: Cháu Trịnh Ngọc F - sinh ngày 17/5/2010. Giao cháu F cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng, anh B không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh B có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản, công nợ chung: Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chị Lê Thị A phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2015/0004065 ngày 11/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện E, Chị A đã nộp đủ tiền tạm ứng án phí.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Chị A, Anh B vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc ngày niêm yết) bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 15/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:31/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Định - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về