Bản án 31/2018/HNGĐ-PT ngày 04/07/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 31/2018/HNGĐ-PT NGÀY 04/07/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 04 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 16/2018/TLPT-DS ngày 02 tháng 5 năm 2018 về việc “Ly hôn”.

Do Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 17/2018/HNGĐ-ST ngày 07 tháng 3 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Bình Đại bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:117/2018/QĐPT-DS ngày 09 tháng5 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Cẩm T, sinh năm: 1990; Địa chỉ: ấp 1, xã X, huyện H, tỉnh Bến Tre.

- Bị đơn: Nguyễn Văn L, sinh năm: 1982; Địa chỉ: ấp 4, xã X1, huyện H, tỉnh Bến Tre.

- Người kháng cáo: bị đơn ông Nguyễn Văn L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Nguyễn Thị Cẩm T trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn L kết hôn vào năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X1, huyện H, tỉnh Bến Tre. Quá trình chung sống hạnh phúc đến tháng 10 năm 2015 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh L có hành vi bạo lực gia đình, vợ chồng thường xuyên cải vã và luôn bất đồng quan điểm. Chị và anh L ly thân từ tháng 7 năm 2017 đến nay, cả hai sống riêng không có hàn gắn lại tình cảm. Quá trình chung sống chị với anh L có với nhau hai 02 con chung Nguyễn Ngọc Anh T1, sinh ngày: 01/9/2009 và Nguyễn Ngọc Thùy D, sinh ngày: 14/8/2015. Chị đang nuôi dưỡng cháu D, anh L nuôi dưỡng cháu T1. Tài sản chung và nợ chung: không có.

Chị Nguyễn Thị Cẩm T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

- Về con chung: ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung, yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung 650.000 đồng/tháng/01 con chung.

- Tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa sơ thẩm, chị T vẫn giữ yêu cầu khởi kiện được ly hôn với anh Nguyễn Văn L, được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc Thùy D, sinh ngày: 14/8/2015, yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con cho chị hằng tháng 650.000 đồng đến khi con chung đã thành niên. Chị đồng ý để anh L được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc Anh T1, sinh ngày 01/9/2009 theo nguyện vọng của con chung, không cấp dưỡng. Tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo án sơ thẩm và các tài liệu chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Nguyễn Văn L trình bày:

Anh không đồng ý ly hôn, muốn hàn gắn, đoàn tụ lại với chị Nguyễn Thị Cẩm T để chăm sóc và dạy dỗ 02 con chung. Anh thừa nhận có đánh chị T 03 lần do vợ chồng cải vã, không kiềm chế được nên anh đánh chị T. Anh thừa nhận có lỗi và xin khắc phục, sửa đổi tính tình sau này. Về con chung có 02 con chung như chị T trình bày, anh đang nuôi dưỡng cháu Nguyễn Ngọc Anh T1, sinh ngày: 01/9/2009. Trường hợp Tòa án giải quyết vợ chồng anh ly hôn, anh yêu cầu được nuôi hết 02 con chung, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung: không có.

Sau khi hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Bình Đại đã đưa vụ án ra xét xử, tại Bản án số 17/2018/HN- ST ngày 07 tháng 3 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Bình Đại đã tuyên:

Căn cứ vào các điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của chị Nguyễn Thị Cẩm T.

2. Chị Nguyễn Thị Cẩm T được ly hôn với anh Nguyễn Văn L.

3. Về con chung:

Chị Nguyễn Thị Cẩm T được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc Thùy D, sinh ngày: 14/8/2015. Anh Nguyễn Văn L, phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Nguyễn Thị Cẩm T hằng tháng số tiền là 650.000 đồng (sáu trăm năm chục ngàn đồng) kể từ ngày xét xử sơ thẩm ngày 07/3/2018 cho đến khi con chung Nguyễn Ngọc Thùy D đã thành niên.

Anh Nguyễn Văn L được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc Anh T1, sinh ngày: 01/9/2009. Ghi nhận anh L không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung.

Trong thời gian 02 con chung của chị T và anh L chưa thành niên, chị T có quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung, anh L có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Chị T và anh L có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung. Chị T và anh L không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

4. Tài sản chung, nợ chung: đơn khởi kiện và tại phiên tòa sơ thẩm, chị T và anh L khai thống nhất không có nên Hội đồng xét xử không xét đến.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo bản án của các đương sự.

Ngày 12 tháng 3 năm 2018 anh Nguyễn Văn L có đơn kháng cáo.

Theo đơn kháng cáo và tại phiên tòa phúc thẩm anh Nguyễn Văn L trình bày: anh kháng cáo toàn bộ nội dung Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 17/2018/HNGD-ST ngày 07 tháng 3 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Cẩm T, để anh và chị T có cơ hội hàn gắn lại tình cảm vợ chồng, cùng nhau nuôi dạy các con trưởng thành.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh L trình bày: anh L và chị T mâu thuẫn không có gì trầm trọng nên mong muốn Hội đồng xét xử cho anh L và chị T một khoảng thời gian để anh chị suy nghĩ và hàn lại tình cảm vợ chồng, để cả hai anh chị cùng nhau lo cho các con của mình. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của anh L, sửa Bản án sơ thẩm, bác yêu cầu xin ly hôn của chị T.

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Cẩm T trình bày: chị và anh L không thể nào hàn gắn lại tình cảm vợ chồng, chị yêu cầu Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu cho rằng: Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Về nội dung: anh L có thiện chí hàn gắn và cam kết khắc phục lỗi lầm. Hơn nữa, chị T và anh L có hai con chungcòn rất nhỏ, cần sự quan tâm của cha mẹ. Cho nên, cần tạo cơ hội cho hai bên có một một thời gian suy nghĩ lại. Đề nghị, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của anh L, sửa Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 17/2018/HNGĐ-ST ngày 07/3/2018 của Toà án nhân dân huyện Bình Đại theo hướng bác yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Cẩm T.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Xét kháng cáo của anh Nguyễn Văn L và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]Chị Nguyễn Thị Cẩm T và anh Nguyễn Văn L kết hôn năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X1, huyện H nên được xem là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ.

Sau khi kết hôn cả hai chung sống hạnh phúc. Tuy nhiên, theo chị T cho rằng đến tháng 7/2017 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân, là do kinh tế gia đình không ổn định, vợ chồng hay cãi vả và anh L thường đánh đập chị và từ tháng 7/2017 chị về nhà cha mẹ ruột sống cho đến nay. Tại tòa chị cương quyết xin ly hôn. Anh L thừa nhận, có hai lần trong lúc vợ chồng cãi vả, do không kiềm chế bản thân nên có đánh chị T, anh chỉ dùng tay đánh mà thôi, nhưng sau đó anh đã biết lỗi và xin lỗi chị T tha thứ. Anh yêu cầu tòa cho anh cơ hội để anh và chị T hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Bởi vì anh còn thương chị T rất nhiều, mặt khác hai con của anh chị còn rất nhỏ nên cần có sự chăm sóc của cha và mẹ.

[2] Tại phiên tòa hôm nay lời trình bày của anh L, chị T cũng thừa nhận anh L cùng với người thân có đến gia đình cha mẹ ruột của chị để xin lỗi và yêu cầu chị trở về chung sống cùng nhau lo cho các con. Nhưng chị không đồng ý vì chị cho rằng chị không còn thương anh L nữa và mong muốn được ly hôn.

[3] Thấy rằng, sau khi kết hôn anh chị đã có một khoảng thời gian dài sống rất hạnh phúc, từ năm 2009 đến tháng 7/2017 thì mới phát sinh mâu thuẫn, do anh Tú hiểu lầm dẫn đến vợ chồng cãi vả, trong lúc nóng giận anh không kiềm chế được đã dùng tay đánh chị T, nhưng sau đó anh đã biết lỗi và xin lỗi, anh L tha thiết được hàn gắn tình cảm vợ chồng, chính chị cũng thừa nhận và tại biên bản xác minh trình trạng hôn nhân của anh chị vào ngày 29/12/2017, chính quyền địa phương cũng cho rằng cuộc sống vợ chồng của anh chị vẫn bình thường, không nghe anh chị cự cãi hay mâu thuẫn gì, như vậy việc chị T cho rằng anh L có hành vi bạo lực gia đình là không có căn cứ.

[4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn giữa anh L và chị T chưa đến mức trầm trọng, cần có thời gian để cho anh L và chị T suy nghĩ lại tình cảm vợ chồng. Ngoài ra, anh chị có hai con chung, một cháu tên Nguyễn Ngọc Anh T1, sinh ngày: 01/9/2009 và một cháu tên Nguyễn Ngọc Thùy D, sinh ngày: 14/8/2015, các con của anh chị còn quá nhỏ, cần phải có sự chăm sóc, dạy dỗ của cha và mẹ, sống chung trong một mái nhà để cho các cháu có điều kiện phát triển tốt về tâm sinh lý. Do đó, kháng cáo của anh L là có cơ sở nên được chấp nhận. Sửa Bản hôn nhân gia đình sơ thẩm số 17/2018/HNGĐ-ST ngày 07/3/2018 của Toà án nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của chị Nguyễn Thị Cẩm T.

Quan điểm cho Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Do yêu cầu xin ly hôn của chị T không được chấp nhận nên Hội đồng xét xử không xem xét đến những phần khác.

[5] Do kháng cáo được chấp nhận nên anh Nguyễn Văn L không phải chịu án phí phúc thẩm theo Điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Văn L.

Sửa Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 17/2018/HNGĐ- ST ngày 07 tháng 3 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.

Tuyên xử:

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn của chị Nguyễn Thị Cẩm T.

- Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Nguyễn Thị Cẩm T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0005982 ngày 04/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre, chị T đã nộp đủ án phí.

6. Án phí dân sự phúc thẩm: anh Nguyễn Văn L không phải chịu. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Đại có trách nhiệm hoàn lại cho anh Nguyễn Văn L số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006461 ngày 14 tháng 3 năm 2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

337
  • Tên bản án:
    Bản án 31/2018/HNGĐ-PT ngày 04/07/2018 về ly hôn
  • Cơ quan ban hành:
  • Số hiệu:
    31/2018/HNGĐ-PT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    04/07/2018
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HNGĐ-PT ngày 04/07/2018 về ly hôn

Số hiệu:31/2018/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về