Bản án 311/2020/HNGĐ-ST ngày 07/07/2020 về ly hôn giữa bà D và ông C

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 311/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2020 VỀ LY HÔN GIỮA BÀ D VÀ ÔNG C

Ngày 07 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận 11 xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 100/2020/TLST-HNGĐ ngày 06/3/2020 về “ Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/6/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2020/QĐST-HNGĐ ngày 19/6/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thùy D, sinh năm 1992; địa chỉ: đường B, phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh;

Bà D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Huy C, sinh năm 1988; địa chỉ: đường B, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh; Ông C vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiên đề ngày 21/02/2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thùy D trình bày:

Bà D và ông Nguyễn Huy C tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2014 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 166, quyển số 01/2014 đăng ký ngày 13/8/2014.

Vợ chồng chung sống không có con chung.

Trong quá trình chung sống với nhau, bà D và ông C xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân chủ yếu là do hai bên không hợp tính tình, bất đồng quan điểm nhiều mặt trong cuộc sống nên vợ chồng hay xảy ra cãi vã. Cả hai không còn sự quan tâm, tôn trọng lẫn nhau, mặc dù bà D cũng đã cố gắng hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Bà D nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc. Vì vậy, bà D yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông C để bà ổn định cuộc sống.

Về con chung: Bà D và ông C chung sống không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà D xác định trong quá trình chung sống với ông C cả hai không có tài sản chung, không có nợ chung. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thùy D có đơn xin vắng mặt. Bà D vẫn giữ nguyên yêu cầu như trong Đơn khởi kiện đã nêu và ý kiến bà đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ kiện tại Tòa án.

Về phía bị đơn: Ông Nguyễn Huy C có đăng ký thường trú và hiện đang cư ngụ tại địa chỉ số đường B, Phường M, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh. Toà án nhân dân Quận 11 đã thực hiện thủ tục tống đạt trực tiếp, niêm yết các văn bản tố tụng cho ông C nhưng ông C không đến Toà án giải quyết. Do đó, Toà án không thể tiến hành lấy lời khai, hoà giải đối với bị đơn được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 phát biểu quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án,Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo pháp luật tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nhận thấy cuộc sống hôn nhân giữa bà D và ông C thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, quan điểm sống không phù hợp, không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Tại các buổi hòa giải ông C đều không đến, chứng tỏ ông C không có thiện chí muốn đoàn tụ với bà D. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà D và ông C là trầm trọng nên không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 yêu cầu xin ly hôn của bà D có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thùy D; về con chung: Không có; về tài sản chung và nợ chung: Không có. Nguyên đơn chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đại diê n Viê n kiểm sát nhân dân Quâ n 11 tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thùy D có đơn yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Huy C, theo đơn khởi kiện, các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn và tại Kết quả xác minh của Công an Phường M, Quận 11 thì ông Nguyễn Huy C có đăng ký thường trú và hiện đang cư trú tại Quận 11. Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bà Nguyễn Thùy D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông Nguyễn Huy C vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Toà án đã tống đạt hợp lệ nhiều lần các văn bản tố tụng cho ông C nhưng ông C đều vắng mặt, không đến Tòa giải quyết. Ông C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ 2 nhưng đều vắng mặt nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt cả nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thùy D và ông Nguyễn Huy C tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 166, quyển số 01/2014 đăng ký ngày 13/8/2014. Quan hệ hôn nhân giữa bà D và ông C là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Bà D và ông C chung sống với nhau không có con chung.

Mâu thuẫn giữa bà D và ông C phát sinh nguyên nhân chính là do cả hai bất đồng quan điểm nhiều mặt trong cuộc sống mà không thể giải quyết được. Tính cách hai bên có nhiều khác biệt không thể hòa hợp, cả hai không còn sự quan tâm, thương yêu, tôn trọng lẫn nhau. Bà D nhận thấy tình cảm giữa vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau, mâu thuẫn kéo dài không thể hàn gắn nên bà xin ly hôn với ông C.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho ông C. Ông C biết nội dung khởi kiện và yêu cầu của bà D nhưng trong suốt quá trình Tòa án thụ lý đến phiên tòa hôm nay ông C đều không đến Tòa để giải quyết. Điều đó cho thấy ông C cũng không có thiện chí muốn hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Qua sự việc đã nêu thể hiện tình trạng hôn nhân giữa bà D và ông C đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thùy D.

[4] Về con chung: Bà D và ông C chung sống với nhau không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thùy D xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ghi nhận lời khai của bà D xác định bà và ông C không có tài sản chung và nợ chung. Nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thùy D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 71, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 244, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thùy D. Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thùy D và ông Nguyễn Huy C.

Giấy chứng nhận kết hôn số 166, quyển số 01/2014 đăng ký ngày 13/8/2014 do Ủy ban nhân dân phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh cấp không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Không có.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thùy D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà D đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0015415 ngày 04/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; Bà D đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 311/2020/HNGĐ-ST ngày 07/07/2020 về ly hôn giữa bà D và ông C

Số hiệu:311/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về