Bản án 309/2019/HSPT ngày 24/10/2019 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 309/2019/HSPT NGÀY 24/10/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Vào ngày 24 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 309/2019/TLPT-HS ngày 11 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo Lê Quang T, Lê Văn Th về tội “Giết người”. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2019/HS-ST ngày 06/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Lê Quang T, sinh ngày 14 tháng 3 năm 2000, tại xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Xóm P, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Quang Tr và bà Lê Thị T3; vợ con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Sinh ra, lớn lên được gia đình nuôi dưỡng cho ăn học đến lớp 7/12 thì bỏ học ở nhà. Năm 2016 đến tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm thuê (đánh cá biển), không có chỗ ở ổn định, tháng 8/2018 về địa phương cho đến nay; bị bắt tạm giam ngày 31/01/2019,hiện đang bị giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình, có mặt.

2. Lê Văn Th, sinh ngày 11 tháng 7 năm 2001 tại xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Xóm P, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn L2 và bà Lê Thị L1; vợ con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Sinh ra, lớn lên được gia đình nuôi dưỡng cho ăn học đến lớp 9/12 thì bỏ học ở nhà. Năm 2018 đến tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm thuê (đánh cá biển), không có chỗ ở ổn định, tháng 8/2018 về địa phương cho đến nay; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn Th: Ông Nguyễn Bá Th1 - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Bình. có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lê Văn Th: Lê Thị L1 (là mẹ bị cáo Th), sinh năm 1975, nơi cư trú: Xóm P, xã S, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ, ngày 01/9/2018, Lê Văn Th sinh năm 2001 cùng với Lê Quang T sinh năm 2000, Lê Văn C sinh năm 2000, Lê Văn Q sinh năm 2000, Lê Đăng V sinh năm 2001, Lê Hữu H sinh năm 2002 đều trú tại xã S, Huyện L, Quảng Bình trên đường đi chơi hội chợ ở thị trấn K về. Khi qua cầu P thuộc tổ dân phố Ph, thị trấn K thì xảy ra mâu thuẫn với nhóm thanh niên gồm Dương Hữu Th2, sinh năm 1999, Dương Công K1, sinh năm 2000 trú tại TN, xã T1; Phạm Mạnh L, sinh năm 2000 trú tại Xóm M, xã H1. L cho rằng Th nhìn đểu nên có lời nói gây gổ với Th. K1 đi tới dùng mũ bảo hiểm đánh vào vùng mặt của Th, sau đó Th2 và L lao vào dùng tay, chân để đánh Th. Bị đánh, Th rút dao bấm mang theo đâm 2 nhát vào bụng của K1 rồi cầm dao bỏ chạy thì Th2 và L đuổi theo Th, Th2 dùng tay đẩy vào phía sau người của Th làm Th ngã. Th bỏ chạy thì Th2 và L tiếp tục đuổi theo, Th vung dao đâm trúng vào bụng và cánh tay phải của Th2 làm xây xát da. Lúc đó, Lê Quang T đang đứng ở trên cầu thấy Th bạn mình bị đánh nên chạy tới rút dao bấm mang theo trong túi quần đâm 01 nhát trúng vào bụng của L. Thấy K1 đang ngồi ở thành cầu, Lê Quang T đi đến đá 3-4 cái vào người của K1 rồi bỏ đi.

Hậu quả: K1 và L bị trọng thương đưa đi cấp cứu tại bệnh viện đa khoa huyện L sau đó chuyển bệnh viện Việt Nam - Cuba Đồng Hới điều trị đến ngày 13/9/2018 thì ra viện. Th2 bị thương ở tay và bụng đi sơ cứu tại bệnh viện đa khoa huyện L rồi về nhà.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L có Quyết định Trưng cầu giám định thương tích số 111/CSĐT ngày 16/10/2018, đối với Dương Công K1. Trung tâm giám định Y khoa - Pháp y Sở Y tế tỉnh Quảng Bình có kết luận giám định Pháp y về thương tích số 91/TgT ngày 17/10/2018 kết luận:

“1. Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương hạ sườn phải thấu bụng làm lòi đại tràng và mạc nối, rách gan ở hạ phân thùy VI, VII; đã phẫu thuật hút sạch máu tụ, khâu gan cầm máu, khâu vết thương dẫn lưu và điều trị. Hiện tại ổn định; vết thương để lại sẹo kích thước 4,6x0,3 cm; Sẹo mổ đường giữa trên và dưới rốn kích thước 14 x 0,7 cm.

Vết thương phần mềm thượng vị trái để lại sẹo kích thước 5 x0,4 cm.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh K1 do thương tích gây nên là: 40%.

3. Tính chất thương tích: Các thương tích do vết thương ở hạ sườn phải thấu bụng gây nguy hiểm cho tính mạng, vết thương phần mềm ở thượng vị trái không gây nguy hiểm cho tính mạng”. (BL: 62-82)

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L có Quyết định Trưng cầu giám định thương tích số 112/CSĐT ngày 16/10/2018, đối với Phạm Mạnh L. Trung tâm giám định Y khoa - Pháp y Sở Y tế tỉnh Quảng Bình có kết luận giám định Pháp y về thương tích số 92/TgT ngày 17/10/2018 kết luận:

“1. Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương vùng thượng vị trái thấu bụng làm rách cơ thành bụng đã phẫu thuật hút rửa máu ổ bụng, dẫn lưu dịch, khâu phục hồi tổn thương và điều trị. Hiện tại ổn định; vết thương để lại sẹo hình góc vuông kích thước 8,5x0,5 cm; Sẹo dẫn lưu hạ sườn trái kích thước 0,7 x0,4 cm.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh L do thương tích gây nên là: 32% theo nguyên tắc cộng lùi.

3. Tính chất thương tích: Các thương tích do vết thương ở vùng thượng vị trái gây nguy hiểm cho tính mạng”. (BL: 83-103)

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Bình có Quyết định trưng cầu giám định thương tích số 79/QĐ-CSĐT ngày 23/4/2019, đối với Dương Hữu Th2 nhưng anh Th2 có đơn từ chối không giám định.

Về dân sự: Bà Trần Thị Phượng mẹ của Phạm Mạnh L yêu cầu bồi thường 59.000.000 đồng. Ông Lê Quang Trí bố của Lê Quang T đã bồi thường đủ (BL 256-258).

Bà Trần Thị Thủy mẹ của Dương Công K1 yêu cầu bồi thường 53.000.000 đồng. Bà Lê Thị L mẹ của Lê Văn Th đã bồi thường đủ (BL 265-266).

Vật chứng vụ án được Cơ quan điều tra thu giữ:

- 01 (một) con dao bằng kim loại, màu xám, trên cán dao có gắn la bàn, lưỡi dao khắc chữ “U.S.A” một đầu nhọn; chiều dài lưỡi dao 07cm; chiều dài cán dao 10 cm; chiều rộng lưỡi dao nơi rộng nhất là 02 cm; tổng chiều dài con dao là 17cm.

- 01 (một) con dao làm bằng kim loại, lưỡi dao màu xám, sóng lưỡi dao màu đen, cán dao bằng kim loại, một mặt cán dao màu đen, mặt cán dao còn lại màu vàng - cam. Có chiều dài lưỡi dao là 10,5cm; chiều rộng lưỡi dao 2,4cm, chiều dài cán dao là 13cm, tổng chiều dại con dao là 23,5cm.

Cáo trạng số 237/VKS-P2 ngày 23/5/2019 cửa Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình truy tố các bị cáo Lê Quang T, Lê Văn Th về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 21/2019/HS-ST ngày 06/8/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã quyết định:

1. Tuyên bố các bị cáo Lê Quang T, Lê Văn Th phạm tội “Giết người”;

2. Về hình phạt:

Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 15 của Bộ luật hình Sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo Lê Quang T, Lê Văn Th; Áp dụng thêm điểm e Khoản 1 Điều 51, Điều 54, Điều 90, 91, 101 của Bộ luật hình sự 2015 đối với bị cáo Lê Văn Th.

Xử phạt bị cáo Lê Quang T 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2019, ngày bị cáo bị bắt tạm giam.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Quang T với thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Xử phạt bị cáo Lê Văn Th 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo và thi hành án theo quy định của pháp luật.

Ngày 07/8/2019 bị cáo Lê Văn Th kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 16/8/2019 bị cáo Lê Quang T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 30/8/2019 đại diện hợp pháp cho người bị hại Phạm Mạnh L có đơn xin bãi nại giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Lê Quang T.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Kháng cáo của các bị cáo hợp lệ; xét kháng cáo thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 2 Điều 123 BLHS xử phạt các bị cáo về tội “Giết người” là đúng pháp luật; về mức hình phạt các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhân thân tốt, hậu quả chưa xảy ra phạm tội chưa đạt, riêng bị cáo Lê Văn Th phạm tội là vị thành niên; mức án phạt tù Tòa án sơ thẩm đã xử phạt là đúng pháp luật; đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 BLTTHS bác kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo Lê Quang T khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết và xin giảm nhẹ hình phạt tù.

Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn Th có ý kiến như sau: Hành vi phạm tội của bị cáo là đã rõ, bị cáo nhận tội, Tòa án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo về tội “Giết người” theo quy định tại khoản 2 Điều 123 là đúng người, đúng tội; tuy nhiên, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ là vị thành niên mức án phạt tù 05 năm tù là quá nghiêm khắc đối với bị cáo, đề nghị giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo.

Bị cáo Lê Văn Th khai nhận hành vi phạm tội, thống nhất với lời bào chữa của luật sư và xin giảm nhẹ hình phạt tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Lời khai nhận tội tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định: Khoảng 22 giờ ngày 01/9/2018 Lê Văn Th cùng với Lê Quang T đi chơi hội chợ, khi đi về đến cầu P thuộc tổ dân phố Ph, thị trấn K thì có mâu thuẫn với nhóm thanh niên gồm: Dương Hữu Th2, Phạm Mạnh L, Dương Công K1; khi bị Dương Công K1 dùng mũ bảo hiểm đánh vào mặt Th, Th bỏ chạy thì bị K1 cùng Th2 và L đuổi theo dùng tay chân đấm đá vào người Th đã rút dao mang theo dùng tay trái đâm hai nhát từ dưới lên vào phần bụng của K1, gây thương tích 40%. Khi thấy nhóm người gồm K1, L và Th2 vây đánh Th, Lê Quang T chạy vào cứu giúp và dùng dao mang theo đâm một nhát vào bụng của Phạm Mạnh L gây thương tích 32%. Tòa án sơ thẩm đã xét xử hai bị cáo về tội “Giết người” theo khoản 2 Điều 123 BLHS năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của hai bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của hai bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, bị cáo Th đã dùng dao nhọn đâm bị hại gây thương tật 40%, bị cáo Lê Quang T dùng dao đâm bị hại gây thương tật 32%, các bị cáo đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác trái pháp luật, gây mất trật tự trị an tại địa phương; hung khí là con dao dùng để đâm hai người bị hại được các bị cáo chuẩn bị mang theo trước khi gây án. Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm nhận định đúng về tính chất và mức độ phạm tội của các bị cáo; xem xét về nhân thân của từng bị cáo, và xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho hai bị cáo và xử phạt bị cáo Lê Quang T 8 năm tù và bị cáo Th 5 năm tù là không nặng và đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới khác. Các quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật. Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo về xin giảm nhẹ hình phạt tù, do đó không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo Lê Quang T, bị cáo Lê Văn Th phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Quang T, bị cáo Lê Văn Th và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm:

Áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 15 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo Lê Quang T, Lê Văn Th; Áp dụng thêm điểm e Khoản 1 Điều 51, Điều 54, Điều 90, 91, 101 của Bộ luật hình sự 2015 đối với bị cáo Lê Văn Th.

Xử phạt bị cáo Lê Quang T 08 (Tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 30/01/2019.

Xử phạt bị cáo Lê Văn Th 05 (Năm) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo Lê Quang T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) và bị cáo Lê Văn Th phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

332
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 309/2019/HSPT ngày 24/10/2019 về tội giết người

Số hiệu:309/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về