Bản án 309/2018/HSPT ngày 03/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK LĂK

BẢN ÁN 309/2018/HSPT NGÀY 03/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 10 năm 2018, tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 281/2018/TLPT-HS ngày 28 tháng 8 năm2018, do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2018/HS-ST ngày 23 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

1. Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh ngày 16/7/1999, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn TX, xã PX, huyện KN, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; con ông Nguyễn Văn N và bà Ngô Thị Thu M; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; hiện bị cáo đang tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

2. Người bị hại: Ông Trương Minh T1 và bà Ngô Thị Thu M (Ngô Thị M); nơi cư trú: Thôn TX, xã PX, huyện KN, tỉnh Đắk Lắk (ông T1 vắng mặt, bà M có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án còn có 02 người bị hại và 04 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, không bị kháng cáo và kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn T sống cùng cha dượng là Trương Minh T1và mẹ là Ngô Thị Thu M (Ngô Thị M) tại thôn TX, xã PX, huyện KN. Quá trình sinh sống, T biết bố mẹ mình cất tài sản có giá trị trong két sắt ở phòng ngủ. Ngày 17/01/2018, T vào phòng ngủ của bố mẹ tìm bấm móng tay thấy chùm chìa khóa két sắt của bố mẹ ở dưới gối, T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản trong két sắt nên đã lấy chìa khóa két sắt dự phòng của bà M đem cất giấu ở dưới đế chậu hoa giấy trước nhà. Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 18/01/2018, lợi dụng lúc bố mẹ đi vắng, T lén lút vào phòng ngủ của bố mẹ, dùng chìa khóa két sắt mở két sắt và lấy trộm 02 nhẫn vàng gồm: 01 nhẫn vàng ký hiệu “Minh Hứa 2C”; 01 nhẫn vàng ký hiệu “Chín số 9999 Minh Dũng” và số tiền 7.500.000 đồng. Sau khi lấy trộm được số tài sản trên T cất giấu02 nhẫn vàng dưới chậu hoa trước nhà, giấu chìa khóa két sắt ở chuồng heo, bỏ tiền vào túi quần để tiêu xài cá nhân.

Ngày 20/01/2018, T lấy 01 nhẫn vàng ký hiệu “Minh Hứa 2C” và số tiền7.500.000 đồng rồi nhờ Phạm Văn T2 chở đi ra chợ thị trấn KN, T nói dối T2 là chở T đi mua đồ. Khi đi đến cổng chợ huyện KN, T nói T2 đợi ở ngoài còn T đi vào tiệm vàng NTD ở trong chợ huyện KN bán nhẫn vàng được 7.200.000 đồng, rồi mua lại 02 lắc đeo tay vàng tây hết 4.230.000 đồng. Sau đó, T nhờ T2 chở T đến tiệm “Thế giới điện thoại” ở đường N, thị trấn KN mua 01 điện thoại Iphone 6 với giá 6.050.000 đồng. Ngày 21/01/2018, T gặp anh Trần Đình P nhờ anh P đi cầm chiếc điện thoại Iphone 6 của mình, anh P mang điện thoại đến cầm cố cho anh Phạm Viết V được 3.000.000 đồng rồi đưa lại tiền cho T. T dùng số tiền này tiêu xài hết. Còn 02 lắc vàng tây, quá trình sử dụng T đã làm mất. Sau khi ông T1, bà M phát hiện T trộm cắp tài sản của gia đình thì T đã trả lại cho bà M 01 nhẫn vàng cùng chìa khóa két sắt.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 21/KL-HĐĐGTS ngày 20/3/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện KN kết luận:

- 01 nhẫn vàng trơn trọng lượng 1,998 (chỉ), ký hiệu trên nhẫn “Minh Hứa 2C”, có hàm lượng vàng 98,9% được xác định có giá trị 1,998 (chỉ) x 3.604.905 đồng/chỉ = 7.202.600 đồng.

- 01 nhẫn vàng trơn trọng lượng 4,994 (chỉ), ký hiệu trên nhẫn “Chín số 9999 Minh Dũng” có hàm lượng vàng 99,09% được xác định có giá trị 4,998 (chỉ) x 3.611.830,4 đồng/chỉ = 18.037.481 đồng.

Giá trị 02 nhẫn vàng nêu trên theo định giá được xác định là 25.240.081 đồng.

Tổng giá trị mà bị cáo đã chiếm đoạt là 32.740.081 đồng.

Vật chứng thu giữ được bao gồm: 01 nhẫn vàng trơn trọng lượng 4,994 (chỉ), ký hiệu trên nhẫn “Chín số 9999 Minh Dũng”; 01 nhẫn vàng trơn trọng lượng 1,998 (chỉ), ký hiệu trên nhẫn “Minh Hứa 2C; 01 điện thoại di động Iphone 6. Sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho chị Lê ThịHồng T3 số tiền 7.200.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2018/HS-ST ngày 23/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 09 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng đã trả lại 01 nhẫn vàng trơn trọng lượng 4,994 (chỉ), ký hiệu trên nhẫn “Chín số 9999Minh Dũng”; 01 nhẫn vàng trơn trọng lượng 1,998 (chỉ), ký hiệu trên nhẫn “MinhHứa 2C” cho bà Ngô Thị Thu M và ông Trương Minh T1 là chủ sở hữu hợp pháp.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone 6 của bị cáoNguyễn Văn T.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/8/2018 bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo, đề nghị cấp phúc thẩm xem xét trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động Iphone 6 để bị cáo có điều kiện bồi thường thiệt hại cho người bị hại.

Tại phiên tòa bị cáo thay đổi một phần yêu cầu kháng cáo đối với phần xử lý vật chứng và đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc điện thoại Iphone 6 cho người bị hại là ông T1, bà M.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm cũng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu và thuộc trường ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, người bị hại bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhưng sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình bồi thường số tiền 7.200.000 đồng cho bà Lê Thị Hồng T3 nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo là thiếu sót. Tuy nhiên, xét mức hình phạt 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo.

Xét yêu cầu kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên trả lại 01 điện thoại Iphone 6 cho bị cáo là không có căn cứ, bởi số tiền mà bị cáo dùng để mua điện thoại này là do trộm cắp mà có nên Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước là có căn cứ, đúng pháp luật.

Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Nguyễn Văn T không tranh luận gì thêm mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 06 giờ 30 phút ngày 18/01/2018, tại thôn TX, xã PX, huyện KN lợi dụng lúc bố mẹ của bị cáo đi vắng nhà, bị cáo T đã thực hiện hành vi lén lút trộm cắp 01 nhẫn vàng ký hiệu “Minh Hứa 2C”; 01 nhẫn vàng ký hiệu “Chín số 9999 Minh Dũng” và số tiền 7.500.000 đồng của ông Trương Minh T1 và bà NgôThị Thu M là bố mẹ của bị cáo. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt là32.740.081 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T:

[2.1] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo, thì thấy: Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; hành vi phạm tội của bị cáo gây thiệt hại không lớn, thuộc trường hợp phạm tội lần đầu và ít nghiêm trọng; đồng thời, người bị hại bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo là có căn cứ. Sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình bồi thường số tiền 7.200.000 đồng cho bà Lê Thị Hồng T3 để khắc phục hậu quả nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo là thiếu sót nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trên cho bị cáo.

Tuy nhiên, mức hình phạt 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi bị cáo đã thực hiện. Bởi lẽ: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại, mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ và xin hưởng án treo của bị cáo.

[2.2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T đề nghị Hội đồng xét xử trảlại 01 điện thoại Iphone 6 cho người bị hại, thì thấy:

Số tiền bị cáo dùng để mua chiếc điện thoại Iphone 6 nói trên có nguồn gốc từ việc bị cáo trộm cắp tài sản của người bị hại (đồng thời cũng là bố, mẹ của bị cáo). Bị cáo chưa bồi thường gì cho người bị hại. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phúc thẩm bà Ngô Thị Thu M là mẹ bị cáo cũng có nguyện vọng được nhận lại chiếc điện thoại để giảm bớt một phần thiệt hại; mặt khác, bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét trả lại chiếc điện thoại cho người bị hại. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần tuyên trả cho bà Ngô Thị Thu M và ông Trương Minh T1chiếc điện thoại di động Iphone 6 là phù hợp.

Từ những phân tích, nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận một phần đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T – Sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng về phần xử lý vật chứng.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần nên bị cáo Nguyễn Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356; điểm d khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án:

- Không chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T về phần hình phạt;

- Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T về phần xử lý vật chứng: Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2018/HSST ngày 23/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk về phần xử lý vật chứng.

[2] Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[3] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Năng đãtrả lại 01 nhẫn vàng trơn trọng lượng 4,994 (chỉ), ký hiệu trên nhẫn “Chín số 9999 Minh Dũng”; 01 nhẫn vàng trơn trọng lượng 1,998 (chỉ), ký hiệu trên nhẫn “Minh Hứa 2C cho bà Ngô Thị Thu M và ông Trương Minh T1là chủ sở hữu hợp pháp.

Tuyên trả 01 điện thoại di động Iphone 6 cho người bị hại bà Ngô Thị Thu M và ông Trương Minh T1.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 309/2018/HSPT ngày 03/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:309/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về