Bản án 307/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 307/2019/HS-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 354/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 3367/2019/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc P; Sinh ngày: 06/4/1987, tại: Bình Dương; Thường trú: 346/22B đường C, Phường 12, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị Hồng N; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không;

Tiền án:

- Ngày 18/6/2008 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, tại bản án số 162/2008/HSST;

- Ngày 24/9/2009 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án số 278/2009/HSST;

- Ngày 21/10/2011 bị Tòa án nhân dân thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 42 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, tại bản án số 230/2011/HSST.

- Ngày 25/9/2012 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, tại bản án số 228/2012/HSST. Tổng hợp hình phạt với bản án số 230/2011/HSST ngày 21/10/2011 của Tòa án nhân dân thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, đã xử phạt bị can 42 tháng tù, buộc bị can chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 07 năm 06 tháng tù, đến ngày 16/12/2018 chấp hành xong.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày: 29/01/2019 đến nay – Có mặt

Bị hại: Bà Nguyễn Thị Kim Nguyễn Thị Kim P; sinh năm: 1966; Số hộ chiếu: N3261458, cấp ngày 26/8/2010; thường trú: 25 Hanson Road, Woodville North SA 5012 Ô-xtrây-li-a; Tạm trú: Ấp 1, xã Trị An, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai – Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 29/01/2019, Nguyễn Ngọc P điều khiển xe mô tô biển số 15K1 – 368.85 lưu thông trên đường Hai Bà Trưng, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, theo hường từ Công viên Lê Văn Tám về Cầu Kiệu. Khi đi đến trước nhà số 342 đường H, phường T, Quận 1, thì Nguyễn Ngọc P phát hiện thấy chị Nguyễn Thị Kim P (Quốc tịch Úc) đang đi bộ băng qua đường (cách lề đường khoảng 02 mét), trên cổ chị Nguyễn Thị Kim P có đeo một sợi dây chuyền vàng. Nguyễn Ngọc P nảy sinh ý định cướp giật sợi dây chuyền vàng của chị Nguyễn Thị Kim P nên điều khiển cho xe ép sát vào phía sau lưng chị Nguyễn Thị Kim P rồi dùng tay phải giật sợi dây chuyền trên cổ chị Nguyễn Thị Kim P, xong tăng ga cho xe tẩu thoát. Chị Nguyễn Thị Kim P đuổi theo và tri hô “Cướp ... Cướp”. Nguyễn Ngọc P điều khiển xe chạy đến trước nhà số 60 đường B, phường T, Quận 1, thì bị các anh Nguyễn Huy B, Huỳnh Minh D đạp ngã xe, bắt giữ Nguyễn Ngọc P cùng tang vật giao Công an phường Tân Định, Quận 1 lập Biên bản phạm tội quả tang (BL 96-103).

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Ngọc P đã khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập.

Theo kết luận định giá tài sản số 1828/KL-HĐĐGTS ngày 28/3/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự kết luận: 01 sợi dây chuyền vàng 18K có trọng lượng 2,07 chỉ và 01 mặt dây chuyền vàng 18K có trọng lượng 0,88 chỉ có tổng trị giá là 8.185.000 đồng (BL 36-40).

Vật chứng của vụ án:

- 01 Sợi dây chuyền vàng, đã được trả lại bị hại là chị Nguyễn Thị Kim Nguyễn Thị Kim P.

- 01 xe mô tô loại Dream; nhãn hiệu: Honda; biển số 15K – 368.85 có số khung: LSHK100-01203597 và số máy: LSHK10001203597 là phương tiện phạm tội thu giữ của Nguyễn Ngọc P. Qua điều tra xác minh thể hiện biển số 15K – 368.85 là của xe có số máy: JA38E0190032, số khung: RLHJA3808GY042354 do chị Đinh Thị H, trú tại thôn Đ, xã T, huyện V, thành phố Hải Phòng là chủ sở hữu, nhưng hiện nay chị Đinh Thị H không còn ở nơi cư trú nên chưa làm việc được. Xác minh số khung: LSHK100- 01203597 và số máy: LSHK10001203597, kết quả không có trong cơ sở dữ liệu vật chứng. Bị can khai xe trên mua khoảng tháng 12/2018 với giá 2.500.000 đồng của một người đàn ông không quen biết tại đường Chu Văn An, quận Bình Thạnh, xe không có giấy tờ và khi mua cũng không làm giấy mua bán.

- 01 Điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen, số Imel: 356497/06/722233/9.

- 01 Giấy phép lái xe hạng A1 số X252061 mang tên Nguyễn Ngọc P số X252061

- 01 Căn cước Công dân số 074087000120 mang tên Nguyễn Ngọc P số 074087000120.

Tại bản Cáo trạng số 252/CT-VKS-P2 ngày 20 tháng 6 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc P về tội: “Cướp giật tài sản”, theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên Tòa:

- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa, phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc P từ 05 đến 06 năm tù. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất các biện pháp xử lý vật chứng.

- Bị cáo Nguyễn Ngọc P đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án được tóm tắt như trên, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở để xác định:

Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 29/01/2019, trong lúc đang điều khiển xe mô tô lưu thông trên đường Hai Bà Trưng, Quận 1, Nguyễn Ngọc P phát hiện thấy chị Nguyễn Thị Kim Nguyễn Thị Kim P đang đi bộ băng qua đường trước nhà số 342 đường Hai Bà Trưng, trên cổ chị Nguyễn Thị Kim P có đeo một sợi dây chuyền vàng. Nguyễn Ngọc P nảy sinh ý định chiếm đoạt sợi dây chuyền của chị Nguyễn Thị Kim P nên điều khiển cho xe ép sát phía sau lưng chị Nguyễn Thị Kim P và dùng tay phải giật sợi dây chuyền trên cổ chị Nguyễn Thị Kim P, xong tăng ga cho xe bỏ chạy thì bị chị Nguyễn Thị Kim P tri hô và cùng người dân đuổi theo bắt giữ Phi trước nhà số 60 đường B, phường T, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh Bị cáo Nguyễn Ngọc P đã thực hiện hành vi nhanh chóng bất ngờ tiếp cận bị hại, chiếm đọat tài sản rồi nhanh chóng tẩu thoát. Vì vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội “Cướp giật tài sản”, như bản cáo trạng đã truy tố. Do bị cáo dùng thủ đoạn phạm tội nguy hiểm là sử dụng xe mô tô làm phương tiện để cướp giật tài sản của bị hại, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng sức khỏe của bị hại cũng như của những người khác đang tham gia giao thông, mặt khác lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc P theo các điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự là có cơ sở, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây mất an ninh trật tự ở địa phương. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi cướp giật tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng nhưng không muốn bỏ công sức lao động nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội một cách táo bạo và liều lĩnh, lợi dụng sơ hở của người bị hại khi đem theo tài sản lưu thông trên đường, bị cáo đã dùng phương tiện xe mô tô công khai cướp giật, chiếm đoạt tài sản ngay trên đường giao thông, chứng tỏ ý thức xem thường pháp luật của bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Ngọc P là người có nhân thân rất xấu, đã có 04 tiền án chưa được xóa án tích:

- Ngày 18/6/2008 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, tại bản án số 162/2008/HSST;

- Ngày 24/9/2009 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án số 278/2009/HSST.

- Ngày 21/10/2011 bị Tòa án nhân dân thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 42 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, tại bản án số 230/2011/HSST.

- Ngày 25/9/2012 bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, tại bản án số 228/2012/HSST. Tổng hợp hình phạt với bản án số 230/2011/HSST ngày 21/10/2011 của Tòa án nhân dân thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, đã xử phạt bị can 42 tháng tù, buộc bị can chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 07 năm 06 tháng tù, đến ngày 16/12/2018 chấp hành xong hình phạt.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Ngọc P bị Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử tại bản án số 228/2012/HSST ngày 25/9/2012 là tái phạm nguy hiểm, bị cáo chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội do cố ý, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, theo quy định tại khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự, tuy nhiên do tái phạm nguy hiểm đã là tình tiết định khung hình phạt nên không áp dụng là tình tiết tăng nặng đối với bị cáo.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo Nguyễn Ngọc P, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án nghiêm khắc, tương xứng, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên cũng xem xét bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án là 01 sợi dây chuyền vàng, đã được Cơ quan điều tra thu hồi trả lại bị hại là chị Nguyễn Thị Kim P, chị Nguyễn Thị Kim P đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[4] Về xử lý vật chứng:

- 01 xe mô tô loại Dream, nhãn hiệu Honda; biển số 15K – 368.85 có số khung: LSHK100-01203597 và số máy: LSHK10001203597 là phương tiện phạm tội thu giữ của Nguyễn Ngọc P. Qua điều tra xác minh thể hiện biển số 15K – 368.85 là của xe có số máy: JA38E0190032, số khung: RLHJA3808GY042354 do chị Đinh Thị H, trú tại thôn Đ, xã T, huyện V, thành phố Hải Phòng là chủ sở hữu, nhưng hiện nay chị Đinh Thị H không còn ở tại nơi cư trú nên chưa làm việc được. Xác minh số khung: LSHK100- 01203597 và số máy: LSHK10001203597, kết quả không có trong cơ sở dữ liệu vật chứng. Bị cáo Nguyễn Ngọc P khai xe trên mua khoảng tháng 12/2018 với giá 2.500.000 đồng của một người đàn ông không quen biết tại đường Chu Văn An, quận Bình Thạnh, xe không có giấy tờ và khi mua cũng không làm giấy mua bán.

Xét thấy chiếc xe mô tô loại Dream, biển số 15K – 368.85 có số khung: LSHK100-01203597 và số máy: LSHK10001203597 là phương tiện dùng vào việc phạm tội, hiện chưa xác định được chủ sở hữu, nên giao cho Cục thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 năm, nếu không có chủ sở hữu hợp pháp đến nhận, thì chiếc xe trên được tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

- Đối với: 01 Điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen, số Imel: 356497/06/722233/9; 01 Giấy phép lái xe hạng A1 số X252061 mang tên Nguyễn Ngọc P số X252061; 01 Căn cước Công dân số 074087000120 mang tên Nguyễn Ngọc P. Tất cả là những vật không liên quan đến vụ án, nên trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc P.

[6] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm d, điểm i khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc P 05 (năm) năm tù về tội: "Cướp giật tài sản". Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 29 tháng 01 năm 2019.

[2] Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 2 điều 228 Bộ luậ Dân sự năm 2015;

- Giao cho Cục thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 (một) năm, nếu không có chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe mô tô loại Dream, biển số 15K – 368.85, số khung: LSHK100-01203597 và số máy: LSHK10001203597 đến nhận, thì chiếc xe trên được tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc P: 01 Điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen, số Imel: 356497/06/722233/9; 01 Giấy phép lái xe hạng A1 số X252061 mang tên Nguyễn Ngọc P; 01 Căn cước Công dân số 074087000120 mang tên Nguyễn Ngọc P.

(Vật chứng nêu trên được thể hiện tại Biên bản giao nhận tang tài vật số 372/19 ngày 16/7/2019 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc P nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 307/2019/HS-ST ngày 16/08/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:307/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về