TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH - TP. HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 13/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Thanh N, sinh năm 1996 tại Tp. Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh; nơi cư trú: xã C, huyện D, Tp. Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thanh P (chết) và bà: Hồ Thị Thanh T, sinh năm 1974; vợ, con: không có; nhân thân: Quyết định số 140/QĐ-UB ngày 30/3/2012 Ủy ban nhân dân Phường 5, quận Tân Bình áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã 06 tháng về hành vi trộm cắp tài sản; tiền án: Bản án số 190/2017/HSST ngày 29/11/2017 Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong bản án ngày 22/4/2020; tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: 15/10/2020. Có mặt.
- Bị hại: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1960, nơi cư trú: Phường A, quận B, Tp. Hồ Chí Minh. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ ngày 15/10/2020, Nguyễn Thanh N điều khiển xe gắn máy hiệu Attila mùa đỏ, biển số 59G1-082.32 đến trước số 876/35/18 đường X, Phường A, quận B nhìn thấy xe ô tô hiệu Toyota Vios biển số 51H1-166.84 của ông Nguyễn Văn H đang đậu xe trước nhà, không có người trông coi. N nảy sinh ý định trộm kính chiếu hậu của e ô tô trên bán lấy tiền tiêu xài nên dừng xe lại. Sau đó, N đi bộ đến bên cạnh xe ô tô, dùng hai tay cầm kính chiếu hậu bên trái đẩy từ dưới lên trên làm kính bị gãy. N tiếp tục bẻ gãy kính chiếu hậu bên phải rồi bỏ hai kính chiếu hậu vào cốp xe gắn máy của mình, chạy xe rời khỏi hiện trường. Khi đang chạy xe đến trước nhà 986/13 đường X, Phường A, quận B, N bị Công an Phường 5, quận Tân Bình kiểm tra phát hiện nên đưa về trụ sở làm rõ.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thanh N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.
Vật chứng vụ án:
- 02 kính chiếu hậu màu trắng có chữ Toyota 023866, trị giá 4.000.000 đồng/cái, tổng cộng là 8.000.000 đồng, đã thu hồi trả lại cho bị hại ông Nguyễn Văn Hương. Ông Hương đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm.
- 01 USB màu đen ghi nhận sự việc phạm tội (lưu kèm hồ sơ vụ án).
- 01 xe gắn máy hiệu Attila màu đỏ, biển số 59G1-082.32 thu giữ của N.
Qua xác minh xe do chị Nguyễn Thị Thanh H đứng tên đăng ký. Ngày 23/02/2016, chị H đã bán lại cho chị ruột là chị Nguyễn Thị Thanh T nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 14/10/2020, chị T cho N mượn xe đi làm, chị không biết N dùng xe vào việc phạm tội, phù hợp với lời khai của N. Công an Tân Bình đã trả lại xe cho chị T.
Tại bản cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 21 tháng 01 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa:
- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
Về vật chứng và trách nhiệm dân sự thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.
- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Thanh N, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của bị hại, người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thanh N đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 02 kính chiếu hậu xe ô tô màu trắng có chữ Toyota 023866, có tổng trị giá 8.000.000 đồng của ông Nguyễn Văn H, đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó vừa trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu, quản lý tài sản hợp pháp của công dân được Nhà nước và pháp luật bảo hộ, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác bị pháp luật ngăn cấm và bị trừng trị nhưng do động cơ tham lam nên bị cáo đã cố tình thực hiện tội phạm một cách liều lĩnh, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại cố tình phạm tội, lần phạm tội này của bị cáo được xác định là “Tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết áp dụng hình phạt tù thật nghiêm nhằm mục đích giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Nguyễn Văn H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về vật chứng vụ án: 01 USB màu đen ghi nhận sự việc phạm tội là chứng cứ của vụ án và lưu giữ được trong hồ sơ vụ án nên cần lưu vào hồ sơ vụ án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h khoản 1 Điều 52 và điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:
Căn cứ Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự:
Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo : Nguyễn Thanh N 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/10/2020.
[2] Lưu hồ sơ vụ án 01 USB ghi nhận hình ảnh phạm tội của bị cáo.
[3] Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao án.
Bản án 30/2021/HS-ST ngày 02/02/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 30/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/02/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về