Bản án 30/2021/HNGĐ-ST ngày 27/05/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 30/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 27 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 508/2020/TLST-HNGĐ ngày 24/11/2020 về việc "Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 508/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 508/2021/QĐST-HNGĐ ngày 23/4/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trương Thị H, sinh năm: 1974; Trú tại: K21/09/11 đường D, phường T, quận K, thành phố Đà Nẵng. (Có mặt).

- Bị đơn: Ông Hoàng Việt H1, sinh năm: 1971; Trú tại: K21/09/11 đường D, phường T, quận K, thành phố Đà Nẵng. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện gửi đến Tòa án, biên bản hòa giải và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn - bà Trương Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà H kết hôn với ông Hoàng Việt H1 vào năm 1996 có đăng ký kết hôn tại UBND phường X, quận K, thành phố Đà Nẵng, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện.

Trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mẫu thuẫn do tính tính và quan điểm sống của chúng tôi không hợp nhau, vợ chồng không có sự tôn trọng lẫn nhau. Nay bà H thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn trầm trọng nên bà H yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà H được ly hôn với ông H1.

- Về con chung: Bà Trương Thị H xác định có 02 con chung tên Hoàng Thảo N, sinh ngày 24/6/1999 và Hoàng Duy H2, sinh ngày 01/02/2005.

Ly hôn, bà H có nguyện vọng trực tiếp trông nôm, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 01 con chung Hoàng Duy H2, sinh ngày 01/02/2005, không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng nuôi con.

Đối với con chung, Hoàng Thảo N, sinh ngày 24/6/1999 đã thành niên nên không đề cập.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trương Thị H xác định không có.

* Ông Hoàn Việt H1 không có lời khai trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, đại diện Viện ki m sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm: Việc Tòa án nhân dân quận Thanh Khê thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền; việc tuân theo pháp luật tố tụng đã xác định Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng trong quá trình tham gia giải quyết vụ án tại Tòa án. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Bị đơn vẫn vắng mặt lần hai đã không thực hiện đúng các quy định tại Điều 70 và Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Áp dụng: Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; xử cho bà Trương Thị H được ly hôn với ông Hoàng Việt H1. Giao con chung Hoàng Duy H2, sinh ngày 01/02/2005 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, ông H1 không cấp dưỡng nuôi con. Đối với con chung Hoàng Thảo N, sinh ngày 24/6/1999 đã thành niên nên không đề cập. Tài sản chung và nợ chung không có nên không đề cập giải quyết. Án phí HNGĐ-ST bà Trương Thị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện ki m sát nhân dân quận Thanh Khê phát biểu về việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và quan điểm giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

*Về thủ tục tố tụng:

[1] Đây là vụ án hôn nhân gia đình tranh chấp về “Ly hôn” quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn là ông Hoàng Việt H1 có địa chỉ cư trú tại K21/09/11 đường D, phường T, quận K, thành phố Đà Nẵng nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê theo khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, Toà án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với bị đơn ông Hoàng Việt H1 nhưng ông H1 vẫn vắng mặt không có lý do, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.

*Về nội dung vụ án:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương Thị H và ông Hoàng Việt H1 đã tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 21 tháng 10 năm 1996 tại Ủy ban nhan dân phường X, quận K, thành phố Đà Nẵng. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông H1 là hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Trong quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn và xin ly hôn với ông Hoàng Việt H1. Bà H cho rằng trong quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, cách suy nghĩ nên vợ chồng thường xuyên cãi vã dẫn đến đến cuộc sống không hạnh phúc.

Hội đồng xét xử xét yêu cầu của đương sự thì thấy: Mối quan hệ hôn nhân chỉ thực sự tồn tại khi cả hai vợ chồng cùng yêu thương, cùng nhau xây đắp gia đình, cùng nhau có trách nhiệm, chăm sóc cũng như tạo mọi điều kiện cho nhau trong cuộc sống. Trong quá trình chung sống, bà H và ông H1 phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không sống cùng nhau, không có sự quan tâm cần thiết, ông H1 không có hướng phấn đấu tốt đ vợ chồng có th hòa hợp. Hiện tại cả hai ông bà phần ai nấy sống, không ai có trách nhiệm với ai trong cuộc sống. Xét thấy việc mâu thuẫn tồn tại trong đời sống vợ chồng của các đương sự là có thật, phù hợp với xác minh tại địa phương cũng như các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn kiên quyết yêu cầu Tòa án cho ly hôn với bị đơn. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về con chung: Bà Trương Thị H xác định có 02 con chung tên Hoàng Thảo N, sinh ngày 24/6/1999 và Hoàng Duy H2, sinh ngày 01/02/2005.

Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa hôm nay, bà H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung chưa thành niên Hoàng Duy H2, không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng nuôi con. Đối với con chung Hoàng Thảo N đã thành niên nên không đề cập.

Xét yêu cầu nuôi con chung của bà H thì thấy: Cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con cái. Song việc giao con cho ai nuôi cần xem xét mọi mặt và quyền lợi của con đ không ảnh hưởng đến sự phát tri n bình thường của con. Hiện nay, bà H là người đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung Duy H2, đang chăm sóc dạy dỗ chu đáo và cháu đang ở độ tuổi rất cần sự yêu thương của người mẹ nên việc giao con chung Duy H2 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng cũng đúng với nguyện vọng của con; ông H1 không cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác định không có tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này. Trường hợp sau này có tranh chấp thì khởi kiện bằng vụ án dân sự khác đ giải quyết.

[4] Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nguyên đơn phải chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị H đối với ông Hoàng Việt H1 về việc "Ly hôn ".

Tuyên xử:

1. Cho bà Trương Thị H được ly hôn ông Hoàng Việt H1.

2. Về con chung: Bà H xác định có 02 con chung Hoàng Thảo N, sinh ngày 24/6/1999 và Hoàng Duy H2, sinh ngày 01/02/2005.

Giao con chung Hoàng Duy H2 cho bà H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ông H1 không cấp dưỡng nuôi con.

Đối với con chung Hoàng Thảo N đã thành niên nên không đề cập.

Các đương sự có mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi vì lợi ích con chung, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trương Thị H xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

2. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) bà Trương Thị H phải chịu được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai thu số 0002405 ngày 23 tháng 11 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Bà H đã nộp đủ tiền án phí.

3. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, k từ ngày tuyên án sơ thẩm (27/5/2021). Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, k từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Viện ki m sát có quyền kháng nghị bản án theo quy định của pháp luật.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2021/HNGĐ-ST ngày 27/05/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:30/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về