Bản án 30/2021/HNGĐ-ST ngày 19/03/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 30/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/03/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 19 tháng 3 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 01/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Minh T – sinh năm 1978 Địa chỉ: Tổ x, Ấp y, xã P.T, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Lê Văn H – sinh năm 1974 Địa chỉ: Tổ x, Ấp y, xã P.T, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.

(Các đương sự có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 12 tháng 12 năm 2020 và lời khai trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị Minh T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Minh T và anh Lê Văn H tự nguyện chung sống từ năm 1998, sau đó có đăng ký kết hôn ngày 22/10/2009 tại Ủy ban nhân dân xã P.T, huyện Tân Phú. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình anh H nóng nảy, thường hay uống rượu bia và nhiều lần có hành vi đánh chị. Anh chị đã không còn chung sống từ tháng 11/2020 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn đối với anh.

- Về nuôi con: Chị T trình bày có 03 (Ba) con chung là Lê Văn B – sinh năm 1998, Lê Thị Trúc L – sinh ngày 20/10/2003 và Lê Thiên P – sinh ngày 10/4/2018.

Đối với cháu B đã thành niên và có đủ khả năng lao động tự nuôi bản thân nên chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Chị T yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng cháu L và cháu P, tạm thời không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng cho con.

- Về tài sản: Chị T trình bày anh chị tự thỏa thuận về tài sản chung và không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai, bị đơn anh Lê Văn H trình bày:

- Về hôn nhân: Anh H và chị T tự nguyện chung sống từ năm 1998, sau đó có đăng ký kết hôn ngày 22/10/2009 tại Ủy ban nhân dân xã P.T, huyện Tân Phú. Anh thừa nhận vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn từ năm 2018 do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau vì anh nghi ngờ chị có mối quan hệ với người đàn ông khác nên anh có đánh đập, dùng cây hù dọa chị. Anh chị đã không còn chung sống từ tháng 11/2020 cho đến nay. Chị yêu cầu ly hôn thì anh không đồng ý vì tình cảm vẫn còn và mong muốn có cơ hội đoàn tụ gia đình.

- Về nuôi con: Anh H thừa nhận có 03 (Ba) con chung, đối với cháu Lê Văn B – sinh năm 1998 đã thành niên và có đủ khả năng lao động tự nuôi bản thân nên anh không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết, trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị T thì anh đồng ý giao cho chị trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Thị Trúc L – sinh ngày 20/10/2003 và Lê Thiên P – sinh ngày 10/4/2018, tạm thời anh chưa phải cấp dưỡng cho con.

- Về tài sản: Anh H trình bày anh chị tự thỏa thuận về tài sản chung và không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành sao gửi các tài liệu chứng cứ nguyên đơn giao nộp cho bị đơn và thông báo về việc thu thập được tài liệu chứng cứ cho các đương sự.

Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự không thay đổi, bổ sung ý kiến, đề nghị của mình; bị đơn không có yêu cầu phản tố. Các đương sự không giao nộp, bổ sung thêm tài liệu chứng cứ nào khác, không yêu cầu triệu tập đương sự, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Các đương sự có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên đề nghị tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T. Về hôn nhân: Cho chị T được ly hôn với anh H. Về con chung: Giao cho chị T trực tiếp nuôi con chung, tạm thời anh H chưa phải cấp dưỡng cho con. Về tài sản: Các đương sự trình bày tự thỏa thuận về tài sản chung và không có nợ chung, nên không đề nghị xem xét. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

- Bị đơn anh Lê Văn H có nơi cư trú tại xã P.T, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Chị Lê Thị Minh T khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với anh H, tranh chấp về nuôi con chung. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; xác định tư cách đương sự chị T là nguyên đơn và anh H là bị đơn, theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đã được cấp, tống đạt, thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án. Nguyên đơn vắng mặt tại phiên hòa giải nhưng có đơn giải quyết vắng mặt. Vì vậy, vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 2 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Các đương sự có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

- Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị T và anh H được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P.T, huyện Tân Phú và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của pháp luật ngày 22/10/2009. Như vậy, hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Anh chị đều thừa nhận trong quá trình chung sống có xảy ra mâu thuẫn vì bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, thường xuyên cự cãi, anh nghi ngờ lẫn nhau nên anh có hành vi đánh đập chị, sau đó anh chị đã không còn chung sống từ tháng 11/2020. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành giải thích quy định của pháp luật, vận động, hòa giải nhưng chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, anh H cho rằng vẫn còn tình cảm nên không đồng ý ly hôn nhưng anh không đưa ra được những cơ sở, cách thức để các bên có thể đoàn tụ; đồng thời do không tiến hành hòa giải được nên hòa giải đoàn tụ không thành. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án về tình trạng hôn nhân tại địa phương và các tài liệu, chứng cứ khác cũng thể hiện phù hợp với lời khai của các đương sự.

Như vậy, có đủ cơ sở để xác định, các đương sự đã không còn tình cảm thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn có cơ sở để chấp nhận.

- Về nuôi con: Chị T và anh H thỏa thuận trường hợp ly hôn thì giao cho chị trực tiếp nuôi các cháu Lê Thị Trúc L – sinh ngày 20/10/2003 và Lê Thiên P – sinh ngày 10/4/2018, tạm thời anh chưa phải cấp dưỡng cho con. Đối với cháu Lê Văn B – sinh năm 1998 đã thành niên và có đủ khả năng lao động tự nuôi bản thân nên anh chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của Tòa án về nuôi con chung tại địa phương và các tài liệu, chứng cứ khác thể hiện: Từ sau khi anh chị không còn chung sống, các con chung đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng, bản thân chị có trách nhiệm chăm sóc và đủ khả năng nuôi dưỡng. Đối với con chung đủ 07 (bảy) tuổi trở lên có nguyện vọng muốn ở với chị T. Căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy thỏa thuận về nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng cho con của các đương sự có cơ sở để ghi nhận.

- Về tài sản: Các đương sự trình bày tự thỏa thuận về tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[4] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 235, Điều 238 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 11, Điều 91, Điều 92, Điều 93, Điều 94 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; Điều 19, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về yêu cầu khởi kiện: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Minh T.

- Về hôn nhân: Cho chị Lê Thị Minh T được ly hôn với anh Lê Văn H.

- Về nuôi con: Chị Lê Thị Minh T và anh Lê Văn H có 03 (Ba) con chung là Lê Văn B – sinh năm 1998, Lê Thị Trúc L – sinh ngày 20/10/2003 và Lê Thiên P – sinh ngày 10/4/2018. Đối với cháu B đã thành niên và có đủ khả năng lao động tự nuôi bản thân, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Giao cho chị T trực tiếp nuôi con chung cháu L và cháu P, tạm thời anh H chưa phải cấp dưỡng cho con.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, các đương sự có quyền thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản: Chị Lê Thị Minh T và anh Lê Văn H trình bày tự thỏa thuận về tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

2. Về án phí: Chị Lê Thị Minh T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị T đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003925 ngày 04/01/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai được chuyển thành án phí.

3. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (Sửa đổi, bổ sung năm 2014).

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2021/HNGĐ-ST ngày 19/03/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con 

Số hiệu:30/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về