Bản án 30/2021/DS-ST ngày 27/05/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 30/2021/DS-ST NGÀY 27/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 220/2020/TLST-DS ngày 26 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:41/2021/ QĐXXST - DS ngày 16 tháng 4 năm 2021 và theo Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2021/ QĐST – DS ngày 07 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng N và P Việt Nam Địa chỉ: Số 02, đường Láng H, phường Thành C, quận Ba Đ, thành phố Hà Nội Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đặng Quốc D; Chức vụ: Trưởng phòng kế hoạch kinh doanh Nơi làm việc: Ngân hàng N và P Việt Nam, chi nhánh Ea T, Bắc Đắk Lắk Địa chỉ: Thôn Tân H, xã Ea T, huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk Theo văn bản ủy quyền ngày 04 tháng 9 năm 2020, có mặt

Bị đơn:

  1. Ông Mai Ngọc H; sinh năm 1967, vắng mặt

2. Bà Trương Thị H; sinh năm 1976, vắng mặt Địa chỉ: Thôn Tân Th, xã Ea T, huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk

Ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Mai Thị D (Gi), vắng mặt

2. Bà Mai Thị Ng, vắng mặt Địa chỉ: Thôn Tân Th, xã Ea T, huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Đặng Quốc D trình bày:

Ngày 26 tháng 6 năm 2019, Ngân hàng N và P Việt Nam (Ngân hàng) cho ông Mai Ngọc H (Ông H), bà Trương Thị H (Bà H) vay số tiền 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng). Lãi suất: 11,5%/năm; lãi suất quá hạn: 17,3%/năm; lãi suất chậm trả: 10,0%/năm; định kỳ 06 tháng trả lãi một lần. Mục đích vay: sử dụng vào mục đích của gia đình (Chăm sóc cà phê, tiêu, sầu riêng, đào giếng, mua ống nước và vật dụng sinh hoạt...).

Thời hạn vay: 36 tháng, kể từ ngày 26 tháng 6 năm 2019. Hình thức vay: Có bảo đảm bằng giá trị quyền sử dụng đất.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông H, bà H chưa trả cho Ngân hàng bất kỳ khoản tiền nào (Gốc, lãi). Tính đến ngày 27 tháng 5 năm 2021, ông H, bà H còn nợ Ngân hàng số tiền 378.296.468đ (Gốc: 300.000.000đ, lãi suất: 78.296.468đ) nhưng không trả do vậy Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông H, bà H trả cho Ngân hàng số tiền trên theo quy định của pháp luật.

Tại Hợp đồng tín dụng số 5227 LAV2019 01754 ngày 26 tháng 6 năm 2019 thể hiện nội dung: Ngân hàng N và P Việt Nam cho ông Mai Ngọc H, bà Trương Thị H vay số tiền 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng). Lãi suất: 11,5%/năm; lãi suất quá hạn:

17,3%/năm; lãi suất chậm trả: 10,0%/năm; định kỳ 06 tháng trả lãi một lần. Thời hạn vay: 36 tháng, kể từ ngày 26 tháng 6 năm 2019.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát sau khi phát biểu ý kiến đã khẳng định Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; đại diện của nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án. Bị đơn mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các điều 463, 466, 468 của Bộ luật dân sự, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng buộc ông H, bà H trả số tiền 378.296.468đ và lãi suất phát sinh kể từ ngày 28 tháng 5 năm 2021 cho đến khi trả xong nợ. Sau khi ông H, bà H trả đủ số nợ, thì Ngân hàng có nghĩa vụ trả lại cho ông H, bà H tài sản đã thế chấp. Trường hợp ông H, bà H vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự phát mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Về án phí đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được xem xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thụ lý vụ án:

+ Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả tiền vay theo hợp đồng tín dụng mà các bên đã ký kết. Như vậy quan hệ pháp luật ở đây là:“Tranh chấp hợp đồng vay tài sản" được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Nguyên đơn làm đơn khởi kiện và có nộp tiền tạm ứng án phí. Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại xã Ea T, huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk, vì vậy Tòa án nhân dân huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk căn cứ vào các Điều 35, 39 và khoản 3 Điều 195 của Bộ luật tố tụng dân sự để thụ lý vụ án.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không tiến hành hòa giải được. Mặc dù đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vẫn vắng mặt tại phiên tòa, vì vậy Tòa án căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[3]. Về nội dung quan hệ pháp luật có tranh chấp:

Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thì Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tại hợp đồng tín dụng thể hiện Ngân hàng cho ông Mai Ngọc H, bà Trương Thị H vay 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng). Lãi suất: 11,5%/năm; lãi suất quá hạn:

17,3%/năm; lãi suất chậm trả: 10,0%/năm; định kỳ 06 tháng trả lãi một lần. Thời hạn vay: 36 tháng, kể từ ngày 26 tháng 6 năm 2019.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông H, bà H không có mặt, đồng thời cũng không có chứng cứ chứng minh rằng ông H, bà H đã trả hết hay một phần số tiền gốc 300.000.000đ và lãi suất phát sinh. Như vậy tính đến ngày 27 tháng 5 năm 2021, ông H, bà H còn nợ Ngân hàng số tiền 378.296.468đ (Gốc: 300.000.000đ, lãi suất trong hạn:

66.353.425đ, lãi suất quá hạn: 5.277.397đ, lãi suất chậm trả: 6.665.646đ) chưa trả, đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo Hợp đồng tín dụng và theo quy định tại Điều 466 của Bộ luật dân sự do đó Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông H, bà H trả 378.296.468đ là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, buộc ông H, bà H trả cho Ngân hàng số tiền là 378.296.468đ.

[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận và ông H, bà H không thuộc trường hợp được miễn hoặc không phải chịu án phí, vì vậy ông H, bà H phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm đối với tranh chấp về dân sự có giá ngạch với số tiền 18.914.823đ (Được tính như sau: 378.296.468đ x 5% = 18.914.823đ).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các điều 147; 227; 235; 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các điều 385; 398; 463, 466 và Điều 468 của Bộ luật dân sự;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. C h ấ p n h ậ n yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N và P Việt Nam, buộc ông Mai Ngọc H, bà Trương Thị H trả cho Ngân hàng N và P Việt Nam số tiền 378.296.468đ (Gốc: 300.000.000đ, lãi suất tính đến ngày 27 tháng 5 năm 2021: 78.296.468đ).

Tiếp tục tính lãi suất phát sinh theo Hợp đồng tín dụng số 5227LAV2019 01754 ngày 26 tháng 6 năm 2019 đã ký kết giữa các bên, kể từ ngày 28 tháng 5 năm 2021 cho đến khi ông Mai Ngọc H, bà Trương Thị H trả xong nợ.

2. Về xử lý tài sản thế chấp:

Trường hợp ông Mai Ngọc H, bà Trương Thị H trả xong nợ thì Ngân hàng N và P Việt Nam phải trả lại cho ông Mai Ngọc H, bà Trương Thị H giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 663955, thuộc thửa đất số 388, tờ bản đồ số 30, diện tích 312m2, do Ủy ban nhân dân huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk cấp cho hộ ông Mai Ngọc H và bà Trương Thị H ngày 13 tháng 8 năm 2009; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BG 657397, thuộc thửa đất số 2, tờ bản đồ số 2, diện tích 3487,4m2, do Ủy ban nhân dân huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk cấp cho hộ ông Mai Ngọc H và bà Trương Thị H ngày 07 tháng 3 năm 2014.

Trường hợp ông Mai Ngọc H và bà Trương Thị H vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng N và P Việt Nam có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản mà ông Mai Ngọc H và bà Trương Thị H đã thế chấp theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 5227 LCP 2017 240 783 198 ngày 07 tháng 6 năm 2017 để thu hồi nợ.

2. Về án phí:

+ Ông Mai Ngọc H, bà Trương Thị H phải chịu 18.914.823đ tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

+ Trả lại cho Ngân hàng N và P Việt Nam số tiền 8.557.000đ đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông N, tỉnh Đắk Lắk theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/ 0014992 ngày 19 tháng 10 năm 2020.

3. Về quyền và thời hạn kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa nên có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, được thi hành theo quy định tại điều 2 của Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2021/DS-ST ngày 27/05/2021 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:30/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về