Bản án 30/2020/HNGĐ-ST ngày 15/06/2020 về ly hôn giữa chị Y và anh T

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 30/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2020 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ Y VÀ ANH T

Ngày 15 tháng 6 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 644/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 12 năm 2019 về việc “ ly hôn; nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2020/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1990 “có mặt”.

Bị đơn: Anh Lưu Văn T, sinh năm 1991 “vắng mặt”.

Cùng địa chỉ: Thôn A, xã G, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/11/2019 và trong quá trình xét xử, nguy đơn chị Nguyễn Thị Y trình bày:

Về hôn nhân: Chị với anh Lưu Văn T kết hôn với nhau từ ngày 23/02/2012. Trước khi kết hôn hai bên có được tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống với nhau ngay tại thôn A, xã G. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa hợp hạnh phúc, đến năm 2014 vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn. Nguy nhân mâu thuẫn vợ chồng là do không hợp nhau, hay bất đồng quan điểm, anh T không có trách nhiệm với gia đình, cuộc sống chung không hạnh phúc. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay không còn quan hệ tình cảm cũng như kinh tế. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, chị vẫn giữ nguy quan điểm đề nghị giải quyết ly hôn với anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Lưu Xuân G, sinh ngày 05/10/2013. Nguyện vọng của chị về con chung là sau ly hôn được nuôi dưỡng con chung. Hiện nay chị có nơi ở và có thu nhập ổn định, đủ điều kiện nuôi con. Về cấp dưỡng nuôi con chung chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng.

Về tài sản riêng, chung, công nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh T không đến Tòa án để trình bày quan điểm đối với yêu cầu khởi kiện của chị Y. Ông Lưu Văn Giang (bố đẻ của anh T) ở cùng địa chỉ xác nhận anh T đi làm xa, thứ 7, chủ nhật mới về nhà. Sau khi nhận thay các văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho anh T như Thông báo thụ lý, giấy triệu tập; Thông báo phiên họp kiểm tra việc tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, ông đã giao lại cho anh T như cam kết với Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký Tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên toà Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về phía các đương sự, nguy đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành các quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều Điều 147; Điều 228; 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T.

Về nuôi con chung: Giao chị Nguyễn Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung; Về tài sản riêng, chung; công nợ chung: Không đặt ra xem xét giải quyết. Ngoài ra còn đề xuất về án phí và quyền kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ vào Điều 28; Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang; Tại phiên tòa bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về hôn nhân: Chị Y và anh T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, khi kết hôn đảm bảo đúng điều kiện kết hôn theo quy định pháp luật nên xác định là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống chị Y xác định có phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau, hay bất đồng quan điểm, cuộc sống chung không hạnh phúc và vợ chồng ly thân nhau đã lâu từ năm 2014 cho đến nay không còn quan hệ tình cảm cũng như kinh tế. Nay chị Y vẫn cương quyết đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Vì vậy xác mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Y và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Y theo quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về nuôi con chung: Chị Y có nguyện vọng nuôi con, xét thấy từ nhỏ đến lớn cháu G đều do chị Y trực tiếp nuôi dưỡng. Về điều kiện nuôi con, chị Y có công việc, thu nhập và có nơi ở ổn định nên căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Lưu Xuân G cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Y không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về Tài sản riêng, chung; Công nợ chung: Do chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147; Điều 227; 228; 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Y và anh Lưu Văn T.

2. Về nuôi con chung: Giao chị Nguyễn Thị Y trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lưu Xuân G, sinh ngày 05/10/2013. Anh Nguyễn Văn T có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở theo quy định pháp luật.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Y phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Xác nhận chị Y đã nộp đủ số tiền 300.000đ tại biên lai thu số AA/2017/0004464 ngày 19/12/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuy án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2020/HNGĐ-ST ngày 15/06/2020 về ly hôn giữa chị Y và anh T

Số hiệu:30/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về