Bản án 30/2019/HS-ST ngày 09/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 30/2019/HS-ST NGÀY 09/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 31/2019/HSST ngày 21 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

 Trịnh Đức V, sinh năm 1957; tại tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Số nhà 30, ngõ 130, phố N, thị trấn V, huyện H, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 4/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Đức Q (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; có vợ Dương Thị H (đã ly hôn); con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1987, con nhỏ sinh năm 1993; tiền án: Ngày 21/4/2016, Tòa án nhân dân huyện H, thành phố Hà Nội xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không. Đặc điểm nhân thân: Năm 1986, Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tây xử phạt 03 năm tù về tội "Cưỡng đoạt tài sản”. Ngày 16/4/1996, Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tây xử phạt 03 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tạm giữ ngày 02/5/2019, tạm giam ngày 08/5/2019. Có mặt.

* Người làm chứng: Anh Bùi Thế T, sinh năm 1981; trú tại: Tổ dân phố T, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ ngày 02/5/2019, Trịnh Đức V, sinh năm 1957 ở số nhà 30, ngõ 130, phố N, thị trấn V, huyện H, thành phố Hà Nội lấy trong túi áo khoác treo trong phòng ngủ của mình 01 túi nilon màu trắng, bên ngoài quấn băng dính màu đen, bên trong có 01 gói Heroine bọc bằng giấy bạc màu trắng; 07 đoạn ống nhựa màu cam, sọc trắng; 01 đoạn ống nhựa màu đen và 01 đoạn ống nhựa màu vàng. Các đoạn ống nhựa đều hàn kín hai đầu, bên trong đều chứa chất ma túy đá. Sau đó Trịnh Đức V điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Super Cup 50 BKS 19-154-HA mang số ma túy trên đến địa bàn huyện K, tỉnh Hà Nam tìm đối tượng tên là K để nhờ bán kiếm lời. Khi đi đến đoạn đường QL 21B thuộc thôn Th, xã T, huyện K, tỉnh Hà Nam thì bị Công an tỉnh Hà Nam phát hiện, bắt quả tang. Thu trong túi áo khoác của Trịnh Đức V 01 túi nilon màu trắng KT 03 x 05cm, miệng túi kẹp nhựa, bên ngoài quấn bắng dính màu đen, bên trong có 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng; 07 đoạn ống nhựa màu cam, sọc trắng; 01 đoạn ống nhựa màu đen và 01 đoạn ống nhựa màu vàng. Các đoạn ống nhựa đều hàn kín hai đầu, bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng, niêm phong ký hiệu QT01. Thu trong túi quần phía trước bên trái 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, ký hiệu QT02 và tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Super Cup 50 BKS 19-154-HA. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trịnh Đức V không phát hiện, thu giữ gì.

Tại bản kết luận giám định số 95/PC09-MT ngày 05/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,693 gam Methamphetamine. Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,270gam, loại Heroine.

Về nguồn gốc ma túy: Trịnh Đức V khai nhận mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực thành phố Nam Định với giá 1.800.000đồng và đối với đối tượng có tên là K, Trịnh Đức V khai tìm nhờ đối tượng này bán hộ ma túy để kiếm lời. Do Trịnh Đức V không biết họ tên, tuổi, địa chỉ, không nhớ đặc điểm nhận dạng của người đàn ông đã bán ma túy và đối tượng tên K nên cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Ti bản cáo trạng số 35/CT-VKSKB ngày 19/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố Trịnh Đức V về tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trịnh Đức V phạm tội "Mua bán trái phép chất ma tuý ". Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Trịnh Đức V từ 30 đến 36 tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày tạm giữ 02/5/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đề số 95/PC09-MT mẫu vật hoàn trả QT01. Trả lại cho bị cáo Trịnh Đức V 01 điện thoại di động màu xanh đen, nhãn hiệu Nokia cũ. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Super Cup màu xanh BKS 19-154-HA (kèm theo 01 chìa khóa xe). Ngoài ra Viện kiểm sát còn đề nghị về án phí, quyền kháng cáo. Bị cáo nhất trí với cáo trạng, luận tội của Viện kiểm sát, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Kim Bảng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.

[2] Tại phiên tòa và quá trình điều tra bị cáo Trịnh Đức V thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, bản kết luận giám định về chất ma túy, người làm chứng và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Tòa án có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 12 giờ ngày 02/5/2019, Trịnh Đức V, sinh năm 1957 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Super Cup 50 BKS 19-154-HA mang theo 0,693 gam Methamphetamine và 0,270gam Heroine từ nhà ở của mình số nhà 30, ngõ 130, phố N, thị trấn V, huyện H, thành phố Hà Nội đến địa bàn huyện K, tỉnh Hà Nam để nhờ đối tượng tên là K bán kiếm lời. Khi đi đến khu vực thôn Th, xã T, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam thì bị Công an tỉnh Hà Nam bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng. Hành vi đó của Trịnh Đức V đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy". Tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng đã truy tố bị cáo.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại trực tiếp đến khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ, đó là chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi mua 0,693 gam Methamphetamine và 0,270gam Heroine nhằm mục đích để bán lại của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để kiếm lời cho bản thân mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chất ma túy không những trực tiếp hủy hoại sức khỏe con người, làm suy thoái giống nòi, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia mà còn là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tội phạm.

[3] Khi quyết định hình phạt, thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do ngày 21/4/2016, bị cáo bị kết án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nay lại phạm tội nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân xấu, do đó phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian như đề nghị của Viện kiểm sát, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và phòng chống tội phạm chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đồng đến 500.000.000đồng...hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản". Do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên theo các các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo thì bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản, là người mắc nghiện ma túy, người cao tuổi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc ma túy thu giữ: Bị cáo khai nhận mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực thành phố Nam Định với giá 1.800.000đồng và đối với đối tượng có tên là K, bị cáo khai tìm để nhờ đối tượng này bán hộ ma túy để kiếm lời. Do bị cáo không biết họ tên, tuổi, địa chỉ, không nhớ đặc điểm nhận dạng của người đàn ông đã bán ma túy và đối tượng tên K nên cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật được.

[6] Về xử lý vật chứng: Gồm 01phong bì niêm phong số 95/PC09-MT, mẫu vật hoàn trả kí hiệu QT01 là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh đen, đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bị cáo, không phải là vật chứng nên trả lại cho bị cáo. Đối với 01 xe mô tô màu xanh, nhãn hiệu Super Cup 50 BKS 19-154- HA, qua phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ không xác định được chủ sở hữu và không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Bị cáo sử dụng chiếc xe này làm phương tiện phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 của Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331; Điều 332 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trịnh Đức V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Căn cứ khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Điều 50; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trịnh Đức V 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù, tính từ ngày tạm giữ ngày 02/5/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đề số 95/PC09-MT mẫu vật hoàn trả QT01. Trả lại cho bị cáo Trịnh Đức V 01 điện thoại di động màu xanh đen, nhãn hiệu Nokia cũ. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô màu xanh, nhãn hiệu Super Cup 50 BKS 19-154- HA. (Tình trạng, đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an với Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Bảng ngày 21/6/2019).

3. Án phí: Căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trịnh Đức V phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2019/HS-ST ngày 09/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về