Bản án 30/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ- TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 30/2019/HS-ST NGÀY 03/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Đình T, sinh năm 1986; Nơi ĐKNKTT: Thôn X, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Xóm 7, xã L, thành phố P, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình T (đã chết) và bà Lê Thị Y, sinh năm 1958; vợ: Phạm Thị T (đã ly hôn); con: có một con sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 16/12/2018 đến ngày 22/12/2018 chuyển tạm giam cho đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Ngô Tiến D, sinh năm 1996; Trú tại: Thôn 4, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.Vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Ngô Mạnh H, sinh năm 1983; Trú tại: Tổ dân phố T, phường L, thành phố P, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 30 ngày 16/12/2018, Trần Đình T đi bộ từ phòng trọ tại Xóm 7, xã Liêm Tuyền, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đến khu vực cầu vượt Liêm Tuyền, thuộc thôn Triệu, xã Liêm Tuyền, thành phố Phủ Lý mục đích tìm mua ma túy sử dụng. Khi đi đến khu vực cầu vượt Liêm Tuyền, T gọi điện thoại cho bạn nghiện tên N, khoảng 35 tuổi không rõ nhân thân, lai lịch nhờ mua hộ gói đồ và hẹn ở gầm cầu vượt Liêm Tuyền, N đồng ý và điều khiển xe đạp điện đến gặp T, T lấy 400.000đ đưa cho N, N cầm tiền và chở T đến quán nước thuộc tổ dân phố Thá, phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý thì dừng xe bảo T đứng đợi để N đi mua ma túy. Một lúc sau N quay lại đưa cho T 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long, T đoán trong vỏ bao thuốc lá có ma túy nên không mở ra kiểm tra, T cầm vỏ bao thuốc lá và bảo N đi mua hộ cóong, N đồng ý và điều khiển xe đạp điện đi, khi N quay lại chỗ T thì bị lực lượng Công an phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý phát hiện có biểu hiện nghi vấn, yêu cầu kiểm tra. T tự giác giao nộp vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng bên trong có 01 túi nilon màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng tinh thể cho lực lượng Công an. Tại chỗ T khai nhận là gói ma túy cất giữ mục đích để sử dụng, lợi dụng sự sơ hở người thanh niên tên N chạy thoát. Lực lượng Công an tiến hành lập biên theo quy định của pháp luật.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilon màu trắng được đặt trong 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng tinh thể được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen.

Thc hiện lệnh khám xét nơi ở đồ vật của bị cáo không thu giữ, tài liệu đồ vật gì liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 205/PC09-MT ngày 20/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam, kết luận:“Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,385g (không phẩy ba trăm tám mươi năm gam), loại Methamphetamine”.

- Bản cáo trạng số 34/CT-VKSPL ngày 06/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố Trần Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015(đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây viết tắt là Bộ luật Hình sự).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung về nội dung đã truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù và hướng xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật. Bị cáo phạm tội không nhằm mục đích trục lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

- Bị cáo Trần Đình T đã khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố, không tranh luận và không có lời tự bào chữa chỉ xin Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt họ là đúng pháp luật.

[3] Đánh giá về tội danh: Đối chiếu lời khai thành khẩn nhận tội của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra. Hội đồng xét xử thấy cơ bản phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, diễn biến vụ án, bản kết luận giám định của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được cơ quan điều tra thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 10 ngày 16/12/2018, tại khu vực tổ dân phố Thá, phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý, Trần Đình T đang cất giấu trái phép 0,385gam ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phường Liêm Chính, thành phố Phủ Lý phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối bị cáo: Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội nhưng lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính, hình phạt bổ sung: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm nguy hiểm khác. Vì vậy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện để giáo dục, răn đe và nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Xét mục đích phạm tội của bị cáo không nhằm thu lời bất chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật.

[6] Đối với người thanh niên bị cáo khai tên N bán trái phép chất ma túy cho bị cáo. Quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên không có căn cứ xem xét trong vụ án.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng đã thu giữ:

- Đối với toàn bộ số Methamphetamine cùng bao gói hoàn trả sau giám định và 01 bỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc điện thoại di động Nokia màu đen là tài sản hợp pháp của anh Ngô Tiến D, anh D cho bị cáo mượn nhưng không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại chiếc điện thoại trên cho anh Ngô Tiến D là phù hợp pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 50 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1/ Tuyên bố bị cáo Trần Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Trần Đình T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 16/12/2018.

2/ Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì được niêm phong mặt trước ghi mẫu vật hoàn trả QT01 số 205/PC09-MT và 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

- Trả lại anh Ngô Tiến D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu đen, số IMEI: 359971053318084.

Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam với Chi cục thi hành án dân sự, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam ngày 07/3/2019.

3/ Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2019/HS-ST ngày 03/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về