Bản án 30/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 30/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 99/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 3 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 354/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 406/ 2019/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D; nơi ĐKHKTT: Đường N, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Đường N, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn : Anh Nguyễn Chung H; nơi ĐKHKTT: Đường N, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Đường N, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/3/2019, bản tự khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 2005, chị và anh Nguyễn Chung H kết hôn trên cở sở tự nguyện, gia đình hai bên có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán Việt Nam. Có đăng ký kết hôn ngày 18 tháng 10 năm 2005 tại Ủy ban nhân dân phường Máy Chai, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống, chị không tin tưởng anh H trong tình cảm, anh H có những mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Mặc dù chị và gia đình đã phân tích hòa giải để anh H sửa chữa để vợ chồng đoàn tụ, nhưng mâu thuẫn vợ chồng không có kết quả mà ngày càng trầm trọng. Từ năm 2016 đến nay, chị và anh H đã sống ly thân không còn quan hệ về tình cảm cũng như kinh tế. Đến nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Chung H.

Về việc nuôi con: Chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Chung H có hai con chung là Nguyễn Việt K, sinh ngày 25/6/2007 và Nguyễn Bình Hải P, sinh ngày 04/02/2013. Hiện nay hai con đang ở với chị D. Do tính chất công việc của anh H thường xuyên đi làm xa nhà, không có thời gian chăm sóc con nên chị D đề nghị Tòa án giao hai con cho chị trực tiếp nuôi. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con anh chị tự thỏa thuận, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết .

Về việc chia tài sản: Chị Nguyễn Thị D không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Chung H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Nguyễn Chung H đều vắng mặt, không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được và không lấy được lời khai của anh Nguyễn Chung H.

Tòa án đã thu thập chứng cứ đối với gia đình, chính quyền địa phương về quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Chung H, thể hiện: Chị D và anh H có mâu thuẫn từ năm 2016 cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống, chị D không tin tưởng anh H trong tình cảm. Từ đó tình cảm vợ chồng ngày càng trầm trọng, hai người đã sống ly thân mỗi người một nơi không còn quan hệ về tình cảm cũng như kinh tế. Do vậy, đề nghị Tòa án giải quyết vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật. Về con chung: Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Chung H có hai con là Nguyễn Việt K, sinh ngày 25/6/2007 và Nguyễn Bình Hải P, sinh ngày 04/02/2013. Hiện tại chị D vẫn nuôi hai con nên đề nghị giao con cho chị D nuôi; về tài sản chung của vợ chồng không nắm được.

Tại phiên toà, nguyên đơn chị Nguyễn Thị D vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn anh Nguyễn Chung H đã được Tòa án tống đạt Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, không có lý do.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết từ giai đoạn thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; việc chấp hành ph áp luật của nguyên đơn tuân thủ đúng quy định của pháp luật; bị đơn anh Nguyễn Chung H không chấp hành quy định của pháp luật về việc có mặt tại Tòa án để tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải cũng như không có quan điểm giải quyết vụ án, vắng mặt tại phiên tòa lần thứ nhất và phiên tòa lần thứ hai không có lý do, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ, nên đề nghị Hội đồng xét xử xử vắng mặt anh Nguyễn Chung H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên có quan điểm: Mâu thuẫn của chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Chung H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm a khoản 1 Điều 203; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử: Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị D, chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Nguyễn Chung H; về việc nuôi con: Giao hai con chung Nguyễn Việt K, sinh ngày 25/6/2007 và Nguyễn Bình Hải P, sinh ngày 04/02/2013 cho chị D trực tiếp nuôi cho đến khi hai con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Nguyễn Thị D không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết; về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết; về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng dân sự:

+ Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

[1] Đây là vụ án tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Chung H cư trú tại số đường N, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

+ Về thời hạn giải quyết vụ án:

[2] Ngày 20 tháng 3 năm 2019, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền thụ lý vụ án; đến ngày 02 tháng 7 năm 2019, Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Như vậy, Tòa án đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về sự vắng mặt của nguyên đơn:

[3] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị D vắng mặt, có đơn đề nghị Tòa án xử vắng mặt. Vì vậy, Toà án xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

+ Về sự vắng mặt của bị đơn:

[4] Tòa án đã triệu tập hợp lệ phiên tòa lần thứ hai nhưng bị đơn anh Nguyễn Chung H vắng mặt lần thứ hai, không có lý do, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ, chứng tỏ anh Nguyễn Chung H không chấp hành pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân:

[5] Chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Chung H kết hôn trên cở sở tự nguyện, gia đình hai bên có tổ chức lễ cưới t heo phong tục tập quán Việt Nam. Có đăng ký kết hôn ngày 18 tháng 10 năm 2005 tại Ủy ban nhân dân phường Máy Chai, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Đây là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[6] Quá trình chung sống chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Chung H hòa thuận đến năm 2 016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh chị bất đồng quan điểm sống và anh H có quan hệ với người phụ nữ khác. Hai bên gia đình đã hòa giải mâu thuẫn vợ chồng nhưng không đạt kết quả mà mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Từ năm 2016 đến nay, anh chị đã sống ly t hân, không còn quan hệ về tình cảm cũng như kinh tế. Nay, chị Nguyễn Thị D xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, do vậy, chị đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh H. Xét mâu thuẫn giữa chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Chung H đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị D.

+ Về việc nuôi con:

[6] Chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Chung H có hai con chung là Nguyễn Việt K, sinh ngày 25/6/2007 và Nguyễn Bình Hải P, sinh ngày 04/02/2013. Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ tại gia đình, địa phương, nhận thấy: Chị Nguyễn Thị D đang làm việc tại Phòng Kinh doanh Công ty Cổ phẩn Dược phẩm Hoàng Giang, chị có công việc và thu nhập ổn định, và các cháu vẫn đang ở ổn định với chị D; anh Nguyễn Chung H thường xuyên đi làm xa nhà, ít có thời gian chăm sóc con chung hơn chị D. Mặt khác, con Nguyễn Việt K có nguyện vọng được ở với mẹ và gia đình anh H cũng đề nghị Tòa án giao hai con cho chị D trực tiếp nuôi. Để đảm bảo sự ổn định về mặt tâm lý, sự phát triển về mọi mặt cho con, nên cần áp dụng các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên giao hai con Nguyễn Việt K, sinh ngày 25/6/2007 và Nguyễn Bình Hải P, sinh ngày 04/02/2013 cho Chị Nguyễn Thị D trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị Nguyễn Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

+ Về việc chia tài sản:

[7] Chị Nguyễn Thị D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về án phí:

[8] Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị D phải nộ p 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo:

[9] Chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Chung H được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 207; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các điều 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị D.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Nguyễn Chung H.

2. Về việc nuôi con: Chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Chung H có hai con chung là Nguyễn Việt K, sinh ngày 25/6/2007 và Nguyễn Bình Hải P, sinh ngày 04/02/2013. Giao hai con Nguyễn Việt K, sinh ngày 25/6/2007 và Nguyễn Bình Hải P, sinh ngày 04/02/2013 cho chị Nguyễn Thị D trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về việc chia tài sản: Chị Nguyễn Thị D không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015673 ngày 20 tháng 3 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị D đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Chị Nguyễn Thị D và anh Nguyễn Chung H vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:30/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về