Bản án 30/2019/HNGĐ-ST ngày 06/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con sau ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 30/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON SAU LY HÔN

Ngày 06/8/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình. Tòa án nhân dân huyện N mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 82/2019/TLST-HNGĐ ngày 16/04/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về việc nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/7/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị M, sinh năm 1982. Địa chỉ: Thôn L, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1982. Địa chỉ: Thôn L, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

(Chị M, anh S có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 16/4/2019 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện N cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị M trình bày:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn S lấy nhau có Đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V ngày 10/11/2006 dựa trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống cùng mẹ anh S tại Thôn L, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình cho đến khi vợ chồng sống ly thân. Từ khi kết hôn vợ chồng anh chị sống hạnh phúc khoảng 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên xảy ra bất hòa dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Đến đầu tháng 4 năm 2019 thì chị về nhà bố mẹ đẻ cũng tại thôn L, xã V sinh sống từ đó cho đến nay. Nay chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn S vì tình cảm vợ chồng không còn.

2. Về con chung: Vợ chồng anh chị có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Thùy H, sinh ngày 20/9/2007 và cháu Nguyễn Thị Q, sinh ngày 27/02/2011, hiện nay cháu đang ở với chị M. Chị M có nguyện vọng được nuôi cả 2 cháu và không đề nghị anh S phải cấp dưỡng nuôi con chung.Tuy nhiên, nếu anh S không đồng ý thì chị xin nuôi cháu H.

3. Về tài sản chung: Chị không đề nghị Tòa án giải quyết, không đề nghị Tòa án ghi nhận.

4. Về công nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Nguyễn Văn S xác định thời điểm đăng ký kết hôn cũng như quá trình vợ chồng chung sống, con chung, tài sản chung, công nợ chung như chị M đã trình bày. Tuy nhiên, nay chị M làm đơn xin ly hôn thì anh S không đồng ý vì anh còn tình cảm với chị M, các con anh còn quá nhỏ, anh muốn vợ chồng cùng nhau chăm sóc, nuôi dạy con cái. Nhưng nếu chị M vẫn kiên quyết xin ly hôn thì anh S cũng đồng ý.

Về con chung: Anh S cũng có nguyện vọng được nuôi cháu cả 2 cháu và không đề nghị chị M phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Tại phiên tòa: Chị M và anh S vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.

Ý kiến phát biểu của kiểm sát viên:

* Về thủ tục tố tụng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện và chấp hành quyền và nghĩa vụ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

* Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 5; Điều 147; Điều 266; Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 55, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Thị M. Xử ly hôn giữa chị Trịnh Thị M và anh Nguyễn Văn S.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Thùy H, sinh ngày 20/9/2007, hiện nay đang ở với chị M cho chị Trịnh Thị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi. Giao cháu Nguyễn Thị Q, sinh ngày 27/02/2011, hiện nay đang ở với chị M cho anh S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Hai bên không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

- Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị M phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về việc nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn anh Nguyễn Văn S cư trú tại thôn L, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình thụ lý vụ án là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về nội dung khởi kiện: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa HĐXX nhận thấy:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Trịnh Thị M và anh Nguyễn Văn S lấy nhau có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 10/11/2006 nên hôn nhân giữa chị M và anh S được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống chị M và anh S sống hạnh phúc khoảng 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn giữa vợ chồng là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra bất hòa, cãi chửi nhau. Mâu thuẫn sâu sắc nhất là khoảng đầu tháng 4 năm 2019 cũng vì nguyên nhân trên vợ chồng tiếp tục cãi chửi nhau nên chị M đưa hai con bỏ về nhà bố mẹ đẻ cũng tại thôn L, xã V, huyện N, tỉnh Ninh Bình từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Nguyễn Văn S thừa nhận thời điểm đăng ký kết hôn cũng như quá trình vợ chồng chung sống và nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng dẫn đến việc chị M bỏ về nhà bố mẹ đẻ. Anh S cho rằng những mâu thuẫn giữa vợ chồng anh là những mâu thuẫn nhỏ nhặt chưa đến mức phải ly hôn. Tuy nhiên, kể từ khi chị M đưa các con về nhà bố mẹ chị M ở thì anh S cũng không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Chị M xin ly hôn với anh, anh không đồng ý vì anh còn tình cảm với chị, đồng thời các con anh còn quá nhỏ, anh muốn các con anh có cả bố và mẹ chăm sóc nhưng nếu chị M kiên quyết xin ly hôn thì anh cũng đồng ý. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị M, anh S đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị M là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung và cấp dƣỡng nuôi con chung sau ly hôn:

Vợ chồng chị M, anh S có 02 con chung là các cháu Nguyễn Thị Thùy H, sinh ngày 20/9/2007 và cháu Nguyễn Thị Q, sinh ngày 27/02/2011, hiện nay cháu đang ở với chị M. Chị M xin tiếp tục nuôi cháu H còn anh S có nguyện vọng nuôi cả hai con chung. Hội đồng xét xử xét thấy chị M và anh S trong quá trình chăm sóc các cháu đều không vi phạm nghĩa vụ của cha mẹ với con cái. Theo các tài liệu và việc xác minh thì chị M hiện làm công nhân nhà máy may Văn Phú với mức thu nhập 6.000.000 đồng/ 1 tháng còn anh S làm lao động tự do tại xã có mức thu nhập một ngày khoảng 200.000 đồng, cả hai đương sự hiện nay chưa có nhà đất riêng vẫn đang ở cùng bố mẹ. Do vậy, nếu giao cả hai con chung cho anh S nuôi thì không đảm bảo quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng tốt nhất. Mặt khác, cả hai cháu đã trên 7 tuổi, cháu H có nguyện vọng ở với chị M và cháu Q có nguyện vọng ở với anh S. Từ sự phân tích trên, để đảm bảo quyền lợi và sự ổn định của các cháu, đảm bảo quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng đối với con chưa thành niên của các bên đương sự khi ly hôn, xét thấy cần giao cho chị M tiếp tục nuôi dưỡng cháu H và anh S trực tiếp nuôi dưỡng cháu Q là hoàn toàn phù hợp với thực tế, nguyện vọng của cháu nhỏ và phù hợp với quy định của pháp luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con: Hai bên không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Trường hợp sau này có sự thay đổi về điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng ảnh hưởng đến quyền lợi về mọi mặt của con chung của chị M, anh S và các bên đương sự có yêu cầu thì theo quy định của pháp luật sẽ được Tòa án xem xét giải quyết bằng một vụ án khác.

[2.3]. Về tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự tự giải quyết không đề nghị Tòa án giải quyết, không đề nghị Tòa án ghi nhận. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét là phù hợp.

[2.4]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị M phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 5; Điều 147; Điều 266; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng:

- Các điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Xử ly hôn giữa chị Trịnh Thị M và anh Nguyễn Văn S.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Thùy H, sinh ngày 20/9/2007, cho chị M tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Giao cháu Nguyễn Thị Q, sinh ngày 27/02/2011, hiện đang ở với chị M cho anh Nguyễn Văn S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh S và chị M không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị M phải nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Chị M đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2013/0000107 ngày 16/04/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N nay chuyển sang án phí.

4. Án xử công khai sơ thẩm, chị M, anh S được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2019/HNGĐ-ST ngày 06/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con sau ly hôn

Số hiệu:30/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về